Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hà Tĩnh , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 20
Số lượng câu trả lời 345
Điểm GP 23
Điểm SP 356

Người theo dõi (82)

Vy Vy
tuệ anh

Đang theo dõi (2)

Hà Đức Thọ
Huy Giang Pham Huy

Câu trả lời:

Quả tim có chức năng như một cái bơm , bơm máu đi nuôi cơ thể , động mạch là khi quả tim bóp tống máu đi nuôi cơ thể , nên động mạch là mạch dẫn máu đi .Tỉnh mạch, là khi máu đã nuôi cơ thể bị ô nhiểm trở thành đen bầm, máu được tỉnh mạch dẫn về phổi trở về phổi để nhờ o xy của sự thở ở phổi để lọc máu thành đỏ lại rồi lại dẫn vào tim nhờ động tác phồng của tim tạo nên sức hút . Động mạch và tỉnh mạch là những mạch chính ,đưa máu đi và về theo nhịp bóp , phồng của tim . Còn hệ thống mạch nhỏ li ti chằng chịt khắp cơ thể phụ thuộc 2 hệ thống đi và về đó thì gọi là mao mạch.
Ga rô là miếng vải được thắt bên trên chỗ bị thương để không cho máu thoát ra chỗ bị thương , máu ra nhiều quá , hết máu, người bị thương sẽ tử vong , mặc dù vết thương không gây tử vong , tử vong như thế này là do mất hết máu , thường thường nếu vết thương làm đứt động mạch thì máu tuôn ra thành từng vòi . Thắt ca rô bên trên vết thương để ngăn máu chảy ra , nhưng thỉnh thoảng phải nới ra để cơ thể phần dưới ca rô được nuôi bằng máu , nếu không, phần đó sẽ bị hoại tử vì không có máu . Thắt ga rô có người trông coi , thỉnh thoảng nới lỏng ra một chút rồi cột lại chứ không thắt luôn 100%. Đó là sơ cứu khi người bị thương , điều quan trọng là chở người bị thương gấp đến bệnh viện để cấp cứu kịp thời .

Câu trả lời:

Bây giờ thời thể biến thiên
Nhà vua không lấy Trạng Nguyên nữa rồi
Mực tàu, giấy bản là thôi
Nước non đã hết những người áo xanh
(Nguyễn Bính)

Viết về thời thế biến thiên khiến những nhà nho cũ trở thành người sinh bất phùng thời, Vũ Đình Liên đã có một thi phẩm được coi là kiệt tác sinh ra từ hai nguồn thi cảm lòng thương người và tình hoài cổ. Đó là bài thơ Ông đồ mà linh hồn của bài thơ chính là hình ảnh ông đồ một di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn.

Trong xã hội xưa, ông đồ là người có đi học chữ Nho song không đỗ đạt, sống thanh bần giữa những người dân thường bằng nghề dạy học. Chữ nghĩa thánh hiền và nghề dạy học trong xã hội tôn sư trọng đạo được mọi người kính nể. Theo phong tục, ngày tết đến mọi nhà lại sắm câu đối hoặc một đôi chữ nho để trang hoàng nhà cửa, khi đó ông đồ lại có dịp trổ tài. Chính vì thế mỗi năm tết đến, xuân về, hình ảnh ông đồ cùng với nét chữ của ông trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong bức tranh xuân của mọi gia đình Việt nam.

Bài thơ ngũ ngôn gồm có năm khổ thơ khắc họa trọn vẹn một chính thể nghệ thuật: hình ảnh ông đồ cùng thời gian. Lời thơ không cầu kỳ đẽo gọt, từng dòng, từng chữ thong thả, thầm lặng như hoa quỳnh nở, uốn cong xòe ra tỏa hương buồn.

Mở đầu bài thơ là nhịp đời chảy trôi, miên viễn, tự nhiên, cứ thế mà trở thành điệu sống mỗi năm, lại thấy:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ồng đổ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.

Nhà thơ không nói tết đến, xuân về mà nói hoa đào nở bởi đó là tín hiệu của mùa xuân. Câu thơ chỉ kể chứ không tả nhưng người đọc vẫn hình dung sắc hoa đào tươi thắm, mênh mang tạo nên, phông nền của bức tranh xuân. Đất trời thiên nhiên như tái sinh từ một sắc hoa đào chúm chím, nở môi hồng.

Tết đến, xuân về, đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa trong mỗi gia đình Việt Nam xưa:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Hình ảnh ông đồ già xuất hiện cùng với mực tàu, giấy đỏ, nơi phố đông người qua dường như không có gì lạ.

Đến khổ thơ thứ hai, âm điệu câu thơ dường như sôi nổi hơn, giống như tiếng reo vui của nhà thơ, xốn xang, tự hào cho một mỹ tục được bảo tồn, tinh hoa được ngưỡng mộ, tài năng thư pháp được tôn vinh:

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay "

Ông đồ, hình tượng trung tâm của bức tranh xuân, linh hồn của không gian mùa xuân. Màu sắc ánh sáng của hoa đào, lòng ngưỡng mộ của bao nhiêu người đều hướng về ông. Quanh ông là bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài. Câu thơ như tiếng reo trầm trồ, thích thú thán phục của bao nhiêu tức là rất nhiều người trước tài viết chữ của ông. Hai câu thơ:

Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.

Có thể coi là hai câu thơ đẹp nhất, giàu giá trị tạo hình nhất để nói đến tài hoa của ông đồ. Chữ hoa đào ở khổ thơ thứ nhất đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay đặc tả tài năng nghệ sĩ của ông đồ. Từ bàn tay của ông, nét chữ vuông vắn, tươi tắn như hoa mùa xuân thể hiện hoài bão của con người như nhảy nhót, múa lượn. Hai động từ múa và bay gắn liền với những gì được coi là linh thiêng trong tiềm thức của người xưa: phượng, rồng đã cho ta thấy rõ nét chữ phóng khoáng từ tay người như có phép tiên đang thêu dệt gấm hoa làm nên một nét đẹp văn hoá trong truyền thông của dân tộc.

Ông đồ, không chỉ là người viết chữ, mà là người nghệ sĩ đang sáng tạo ra cái đẹp trước lòng ngưỡng mộ của mọi người. Bức tranh xuân năm ấy sao rực rỡ, tươi thắm. Ông chính là nét đẹp lung linh hội tụ ánh sáng, màu sắc, âm thanh rộn rã của mùa xuân. Ngòi bút của Vũ Đình Liên dường như cũng reo cười cùng với nhà nghệ sỹ: ông đồ. Đó là thời kỳ đắc ý nhất của ông. Dường như giữa nhà thơ và ông đồ có một mối tương giao tri kỷ. Phải chăng họ là những người cùng hội, cùng thuyền, là con của những nhà nho cũ.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiến sầu.

Từ nhưng đặt đầu câu thơ đầy tâm trạng. Chữ nhưng hàm chứa cái ngơ ngác, thẫn thờ đến sửng sốt vì một sự thật đau lòng, một tình thế đã bị đảo ngược : từ phố đông người qua giờ đã là mỗi năm mỗi vắng, đông giờ đã vắng. Những người quen thuộc ngày nào, mến mộ ông, giờ đã trở thành người xa lạ. Cụm từ mỗi năm mỗi vắng diễn tả một sự thật nhói buốt diễn ra từ từ, dần dần, đầu tiên là bao nhiêu người thuê viết, sau mỗi năm mỗi vắng để câu thơ thứ hai buông xuống là một câu hỏi tu từ như lời gọi da diết :

Người thuê viết nay đâu?.

Câu thơ giống như câu hỏi không lời đáp chìm vào trống vắng, lặng yên đến nao lòng. Câu thơ viết về thảm cảnh của ông đồ mà như chính niềm ngóng vọng day dứt của nhà thơ.

Hai câu kết của khổ thơ thứ ba rơi xuống như tiếng nấc thầm:

Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiến sầu.

Như ở trên đã nói, giấy đỏ y nghiến mực là hành trang gắn liền với kẻ sĩ ngày xưa, để từ đó họ gửi gắm cái hoài bão của một đời người qua nét chữ tượng hình đó. Ông đồ cũng vậy, nhưng xót xa thay vì không có người thuê viết, nỗi buồn vắng khách của ông đồ đã chiếu lên nghiên mực, phủ mờ giấy đỏ khiến giấy đỏ buồn không thắm, còn mực không được chiếc bút lông chấm vào nên đọng lại như giọt lệ khóc.

Buồn sầu vốn là tâm trạng của con người nhưng ở đây với thủ pháp nhân hóa, nhà thơ khiến cho giấy đỏ và nghiên mực cũng trĩu nặng nỗi buồn sầu của con người. Nỗi buồn sầu của con người đã thấm cả vào những vật vô tri. Hai thanh nặng mực, đọng kết hợp với thanh bằng sầu cuối câu thơ kéo âm diệu câu thơ chùng xuống, với nỗi sầu mênh mang, lan tỏa.

Hai câu thơ cực tả nỗi buồn trĩu nặng của ông đồ, tủi hổ, bẽ bàng cho thân phận, cho chữ nghĩa thánh hiền đang bị lụi tàn dần đi trong xã hội. Nhưng cũng như đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, ông đồ vẫn ngồi đấy y tức là ông vẫn kiên gan, vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với đời, đau xót thay, thực tế lại là:

PROMOTED CONTENT by Mgid Công thức giảm cân đang được lan truyền trong suốt thời gian qua Bạn có thể làm ngực của lớn thêm 40% mà không cần phẫu thuật Trang chủ thủ thuật để có ngực lớn hơn trong 12 Ngày Ngực phát triển như cỏ dại. Đơn giản chỉ cần áp dụng một!

… Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trẽn giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.

Người qua đường vẫn tấp nập nhưng chẳng ai đoái hoài gì đến ông, người đời đã lãng quên ông. Trước kia người ta xúm xít chen nhau để ngắm nghía nét chữ như phượng múa rồng bay và tấm tắc ngợi khen tài của ông, thì nay người ta dửng dưng lạnh nhạt, vô tình đi qua để rồi họ hồ hởi, vồ vập với thứ văn minh lạnh lùng kiểu đô thị hóa.

Trước đây ông là trung tâm của sự chú ý, là niềm khát khao, ngưỡng vọng của mọi người nhưng giờ đây điều đó chỉ còn là hoài niệm. Ông đã trở thành người sinh bất phùng thời.

Hình ảnh ông đã trở nên trơ trọi, lạc lõng, tội nghiệp biết bao! Ông vẫn lặng lẽ ngồi đấy mà trong ông đang là một tấn bi kịch, một sự sụp đổ. Trời đất cũng thảm đạm như lòng ông:

Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.

Bức tranh xuân giờ đây sao u ám, thảm đạm, rũ buồn. Lá vàng rơi là tín hiệu của mùa thu mà ở đây lại đâm ngang như một vết cắt nhói lòng giữa trời xuân. Mùa xuân, nơi khởi đầu của sức sống, mà lại xuất hiện lá vàng rơi. Lá vàng rơi gợi sự tàn phai, rơi rụng, có gì đang để vỡ trong lòng ông. Phải chăng lá vàng rơi ấy báo hiệu cái chết của một thời, cái chết của một lớp người, cái chết của một mĩ tục đã lùi xa.

Nhưng lá vàng rơi trên giấy, hiện thực thật đau lòng. Những tờ giấy đỏ của ông đồ cứ phơi ra đấy hứng lá vàng rơi, ông đồ cũng vẫn cứ ngồi đấy, chìm trong quên lãng. Ngoài trời mưa bụi bay ý câu thơ tả cảnh bình dị nhưng lại chứa chất nỗi niềm. Nơi ông đồ vẫn ngồi đấy và cả ngoài trời đâu đâu cũng thấm màu thê lương, não nuột. Hạt mưa xuân chỉ là mưa bụi lặng lẽ, không đủ làm ướt áo ai, cứ âm thầm, mênh mang. Chỉ là mưa bụi bay mà sao ảm đạm, lạnh lẽo. Mưa bay ngoài trời hay chính là mưa bay trong lòng người.

Lá vàng rơi và mưa bụi bay có thể coi là hai nét vẽ tạo hình cực tả nỗi buồn trong lòng người không chỉ thấm vào giấy đỏ, nghiên mực mà còn lan toả khắp không gian, để bức tranh xuân hiện lên với đường nét mờ nhòa, hiu hắt. Thật đúng là:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Hai câu thơ của Vũ Đình Liên được coi là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, đó là kết quả của sự cộng hưởng cảm xúc, của nỗi thương người và tình hoài cổ.

Bài thơ kết thúc, vẫn với giọng kể lặng thầm:

Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ờ đâu bây giờ?

Có thể nổi đến khổ thơ cuối, niềm hoài cảm đã dâng đầy. Mỗi lời thơ bật ra như tiếng khóc thầm, day dứt. Mở đầu bài thơ là Mỗi năm hoa đào nở, kết thúc bài thơ là năm nay đào lại nở. Đây là kết cấu đầu cuối tương ứng, khá chặt chẽ, làm nổi lên niềm hoài cảm day dứt của nhà thơ; kết cấu ấy cũng như câu thơ năm nay đào lại nở gợi ta liên tưởng tới ý thơ của Thôi Hộ đời Đường:

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Ngày này năm trước tại cửa này
Mặt người và sắc thắm hoa đào ánh vào nhau
Năm nay hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ
Nhưng người chẳng thấy đâu)

Phải chăng ý thơ của Thôi Hộ đã xuôi theo thời gian, trôi về thơ của Nguyễn Du (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông) và neo đậu trong nỗi thương người và tình hoài cổ của Vũ Đình Liên để nở ra sắc hoa đào năm xưa và năm nay trong bài thơ này.

Đào lại nở, cảnh vẫn như cũ nhưng người chẳng thấy đâu.

Không thấy ông đồ xưa

Năm nay đào lại nở, nhưng ông đồ đã trở thành ông đồ Xưa, thành người muôn năm cũ, không biết hồn ở đâu bây giờ.

Tác giả không trực tiếp bày tỏ thái độ tình cảm mà chỉ bằng ngôn ngữ miêu tả, câu thơ năm chữ, ngắn, hình tượng thơ nổi lên với tất cả tâm tình xót thương vô hạn trước cái chết không gì cứu vãn nổi của một lớp người, một thời đại, một nền văn hiến đã mấy ngàn năm gắn bó với mảnh đất này. Trên dòng đời chảy trôi, hình ảnh ông đồ cứ mờ dần, mờ dần rồi mất hút trên con đường vô tận của thời gian, gợi nỗi hoài cảm đến day dứt.

Hai câu kết của bài thơ giống như tiếng gọi hồn lay tỉnh lòng người đến bâng khuâng:

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Câu hỏi hướng về quá khứ xa xăm hay cất lên trong hiện tại, ngóng vọng về tương lai, là tất cả. Mối hoài cảm trào dâng nhà thơ muốn đi tìm những người muôn năm cũ tìm ông đồ, tìm lại một thời xa nay đã mất, muốn ngược dòng thời gian để tìm về nét đẹp xưa, níu giữ một nhã thú đang một đi không trở lại. Lời thơ là một câu hỏi nhưng cũng là lời tự vấn, hàm chứa cả một khoảng trời cảm xúc với bao nuối tiếc, xót xa. Tìm về những người muôn năm cũ nhưng biết hồn ở đâu bây giờ. Hồn là cách nói tinh tế. Ta có thể hiểu là linh hồn kiểu như Thác là thể phách, còn là tịnh anh, hồn cũng có thể hiểu là quốc hồn, quốc túy, là tinh hoa văn hóa của cha ông nhưng hồn ở đâu bây giờ. Ở đâu, hai chữ đầy dằn vặt, tiếc nuối. Hồn thiêng ấy bây giờ tìm đâu. Đến đây, ông đồ đã hòa nhập vào gia tài chung của nền văn hóa Việt, thuộc về những gì là quốc hồn, quốc túy của cha ông.

Câu thơ cuối cất lên giống như tiếng gọi đàn thăm thẳm, lời chiêu hồn cho một lớp người, một thời đại đã dần đi vào quá vãng.

Bài thơ với giọng kể, câu chữ, hình ảnh không tân kỳ trong khi thơ mới đang phá tung cái lề luật của thơ cũ y phá vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch nhưng Ông đồ vẫn được coi là kiệt tác, bởi đó là nét thăng hoa đẹp của hồn thơ Vũ Đình Liên, kết tinh từ lòng thương người và tình hoài cổ.

Bài thơ giông như một nén tâm hương của Vũ Đình Liên về một lớp người, một thời đại đã đi qua, một giá trị văn hóa đang bị mai một.

Thật hiển linh thay, khi tôi viết những dòng chữ này cùng với mưa bụi đón xuân những ngày giáp Tết, cành đào chúm chím nụ hồng bên thềm thế kỷ XXI thì nghệ thuật thư pháp đang được khôi phục lại. Bất ngờ tôi lại ngâm nga:

Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.

Câu trả lời:

Bây giờ thời thể biến thiên
Nhà vua không lấy Trạng Nguyên nữa rồi
Mực tàu, giấy bản là thôi
Nước non đã hết những người áo xanh
(Nguyễn Bính)

Viết về thời thế biến thiên khiến những nhà nho cũ trở thành người sinh bất phùng thời, Vũ Đình Liên đã có một thi phẩm được coi là kiệt tác sinh ra từ hai nguồn thi cảm lòng thương người và tình hoài cổ. Đó là bài thơ Ông đồ mà linh hồn của bài thơ chính là hình ảnh ông đồ một di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn.

Trong xã hội xưa, ông đồ là người có đi học chữ Nho song không đỗ đạt, sống thanh bần giữa những người dân thường bằng nghề dạy học. Chữ nghĩa thánh hiền và nghề dạy học trong xã hội tôn sư trọng đạo được mọi người kính nể. Theo phong tục, ngày tết đến mọi nhà lại sắm câu đối hoặc một đôi chữ nho để trang hoàng nhà cửa, khi đó ông đồ lại có dịp trổ tài. Chính vì thế mỗi năm tết đến, xuân về, hình ảnh ông đồ cùng với nét chữ của ông trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong bức tranh xuân của mọi gia đình Việt nam.

Bài thơ ngũ ngôn gồm có năm khổ thơ khắc họa trọn vẹn một chính thể nghệ thuật: hình ảnh ông đồ cùng thời gian. Lời thơ không cầu kỳ đẽo gọt, từng dòng, từng chữ thong thả, thầm lặng như hoa quỳnh nở, uốn cong xòe ra tỏa hương buồn.

Mở đầu bài thơ là nhịp đời chảy trôi, miên viễn, tự nhiên, cứ thế mà trở thành điệu sống mỗi năm, lại thấy:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ồng đổ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.

Nhà thơ không nói tết đến, xuân về mà nói hoa đào nở bởi đó là tín hiệu của mùa xuân. Câu thơ chỉ kể chứ không tả nhưng người đọc vẫn hình dung sắc hoa đào tươi thắm, mênh mang tạo nên, phông nền của bức tranh xuân. Đất trời thiên nhiên như tái sinh từ một sắc hoa đào chúm chím, nở môi hồng.

Tết đến, xuân về, đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa trong mỗi gia đình Việt Nam xưa:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Hình ảnh ông đồ già xuất hiện cùng với mực tàu, giấy đỏ, nơi phố đông người qua dường như không có gì lạ.

Đến khổ thơ thứ hai, âm điệu câu thơ dường như sôi nổi hơn, giống như tiếng reo vui của nhà thơ, xốn xang, tự hào cho một mỹ tục được bảo tồn, tinh hoa được ngưỡng mộ, tài năng thư pháp được tôn vinh:

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay "

Ông đồ, hình tượng trung tâm của bức tranh xuân, linh hồn của không gian mùa xuân. Màu sắc ánh sáng của hoa đào, lòng ngưỡng mộ của bao nhiêu người đều hướng về ông. Quanh ông là bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài. Câu thơ như tiếng reo trầm trồ, thích thú thán phục của bao nhiêu tức là rất nhiều người trước tài viết chữ của ông. Hai câu thơ:

Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.

Có thể coi là hai câu thơ đẹp nhất, giàu giá trị tạo hình nhất để nói đến tài hoa của ông đồ. Chữ hoa đào ở khổ thơ thứ nhất đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay đặc tả tài năng nghệ sĩ của ông đồ. Từ bàn tay của ông, nét chữ vuông vắn, tươi tắn như hoa mùa xuân thể hiện hoài bão của con người như nhảy nhót, múa lượn. Hai động từ múa và bay gắn liền với những gì được coi là linh thiêng trong tiềm thức của người xưa: phượng, rồng đã cho ta thấy rõ nét chữ phóng khoáng từ tay người như có phép tiên đang thêu dệt gấm hoa làm nên một nét đẹp văn hoá trong truyền thông của dân tộc.

Ông đồ, không chỉ là người viết chữ, mà là người nghệ sĩ đang sáng tạo ra cái đẹp trước lòng ngưỡng mộ của mọi người. Bức tranh xuân năm ấy sao rực rỡ, tươi thắm. Ông chính là nét đẹp lung linh hội tụ ánh sáng, màu sắc, âm thanh rộn rã của mùa xuân. Ngòi bút của Vũ Đình Liên dường như cũng reo cười cùng với nhà nghệ sỹ: ông đồ. Đó là thời kỳ đắc ý nhất của ông. Dường như giữa nhà thơ và ông đồ có một mối tương giao tri kỷ. Phải chăng họ là những người cùng hội, cùng thuyền, là con của những nhà nho cũ.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiến sầu.

Từ nhưng đặt đầu câu thơ đầy tâm trạng. Chữ nhưng hàm chứa cái ngơ ngác, thẫn thờ đến sửng sốt vì một sự thật đau lòng, một tình thế đã bị đảo ngược : từ phố đông người qua giờ đã là mỗi năm mỗi vắng, đông giờ đã vắng. Những người quen thuộc ngày nào, mến mộ ông, giờ đã trở thành người xa lạ. Cụm từ mỗi năm mỗi vắng diễn tả một sự thật nhói buốt diễn ra từ từ, dần dần, đầu tiên là bao nhiêu người thuê viết, sau mỗi năm mỗi vắng để câu thơ thứ hai buông xuống là một câu hỏi tu từ như lời gọi da diết :

Người thuê viết nay đâu?.

Câu thơ giống như câu hỏi không lời đáp chìm vào trống vắng, lặng yên đến nao lòng. Câu thơ viết về thảm cảnh của ông đồ mà như chính niềm ngóng vọng day dứt của nhà thơ.

Hai câu kết của khổ thơ thứ ba rơi xuống như tiếng nấc thầm:

Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiến sầu.

Như ở trên đã nói, giấy đỏ y nghiến mực là hành trang gắn liền với kẻ sĩ ngày xưa, để từ đó họ gửi gắm cái hoài bão của một đời người qua nét chữ tượng hình đó. Ông đồ cũng vậy, nhưng xót xa thay vì không có người thuê viết, nỗi buồn vắng khách của ông đồ đã chiếu lên nghiên mực, phủ mờ giấy đỏ khiến giấy đỏ buồn không thắm, còn mực không được chiếc bút lông chấm vào nên đọng lại như giọt lệ khóc.

Buồn sầu vốn là tâm trạng của con người nhưng ở đây với thủ pháp nhân hóa, nhà thơ khiến cho giấy đỏ và nghiên mực cũng trĩu nặng nỗi buồn sầu của con người. Nỗi buồn sầu của con người đã thấm cả vào những vật vô tri. Hai thanh nặng mực, đọng kết hợp với thanh bằng sầu cuối câu thơ kéo âm diệu câu thơ chùng xuống, với nỗi sầu mênh mang, lan tỏa.

Hai câu thơ cực tả nỗi buồn trĩu nặng của ông đồ, tủi hổ, bẽ bàng cho thân phận, cho chữ nghĩa thánh hiền đang bị lụi tàn dần đi trong xã hội. Nhưng cũng như đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, ông đồ vẫn ngồi đấy y tức là ông vẫn kiên gan, vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với đời, đau xót thay, thực tế lại là:

Câu trả lời:

Học là con đường duy nhất dẫn đến tri thức , học đưa con người đến với thành công . Bất cứ ai cũng đều phải học . Học rất quan trọng nhưng học đúng cách lại càng quan trọng hơn . Và 1 trong những cách học đúng và hiệu quả nhất là phải đi đôi với thực hành.

Vậy “học” có quan hệ như thế nào với “hành”? Học là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ. Học là tiếp thu , đón nhận những kiến thức , kinh nghiệm trong sách vở và ngoài cuộc sống.Học là chinh phục và tìm hiểu. Còn “hành” nghĩa là là thực hành, là vận dụng những kiến thức mình đã được học vào đời sống thực tiễn. Học với hành tuy hai mà một , học với hành ko thể tách rời nhau mà phải được siết chặt. Đã có học thì phải có hành , có hành thì trước hết phải học. Những người biết “học đi đôi với hành” là những người luôn biết học hỏi, và tích cực vận dụng kiến thức của mình vào đời sống.

Quả thật, câu nói trên hoàn toàn đúng. Hành vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã tiếp thu kiến thức mà lại không thực hành, không vận dụng thì những kiến thức đó dần sẽ bị mờ nhạt. Học mà không hành thi xem như vô nghĩa. Chỉ có thực hành mới có thể biến những kiến thức được học thật sự là của mình. Ta đã hiểu rõ việc thực hành trong học tập là điều vô cùng quan trọng. Nhưng nếu như chỉ hành mà không học, thì liệu như thế có tốt không? Một khi đã không nắm vững kiến thức mà lại áp dụng vào thực tế thì công việc sẽ không bào giờ trôi chảy, thậm chí còn có thể gặp những điều không may. Hành mà không học thì sẽ bị mọi người khinh chê là đồ vô dụng. Vì lẽ đó, ta lại càng hiểu nhiều hơn về việc học đi đôi với hành.

nghi luan hoc di doi voi hanh

Học ở đây không có nghĩa chỉ là học trong phạm vi nhà trường, mà học có nghĩa là học mọi lúc mọi nơi. Bất cư ơ đâu, bất cứ khi nào và bất cứ người nào ta cũng phải học hỏi. Cuộc sống như 1 sa mạc và ta là một hạt cát, biết bao nhiêu điều ta còn phải học. Vi thế, thực hành, áp dụng, giúp ta nhớ lâu hơn và thậm chí sẽ không bao giờ quên những gì mình đã học. Học hành không những cho ta mở mang kiến thức, mà còn giúp ta trau dồi đạo đức và những phẩm chất tốt đẹp. Những con người học hành tốt, là những con người đẹp đẽ và đáng được tôn trọng. Bên cạnh những cách học tốt, thì lại có những cách học rất đáng phê phán. Học qua loa, học cho có, học đối phó, rồi học vẹt… là những cách học của một số người hiện nay. Liệu họ có nhận ra được rằng, với những cách học ấy, thì những kiến thức mà họ vừa tiếp thu xem như trống rỗng. Nếu vẫn duy trì những cách học như thế thì họ sẽ chẳng bao giờ thật sự có kiến thức cho riêng mình. Và những cách học ấy là nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực trong thi cử, là yếu tố gây nên nhựng tật xấu.

Là một học sinh, cần phải nghiêm túc trong việc học. Học là phải hiểu, và hiểu là phải thực hành. Không học vẹt, học tủ, học qua loa cho có. Khi học xong thì cần phải ôn lại bài và làm lại các bài tập vận dụng để có thể nhớ được những bài vừa học. Và một điều không thể thiếu là cần phải sáng tạo, mạnh dạn nói lên kiến thức và suy nghĩ của mình để góp phần cho việc học thêm tốt và thành công hơn.

Câu trả lời:

Trong sự nghiệp xậy dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ngày nay, xã hội ngày một phát triển. Sự hiểu biết, trình độ khả năng chuyên môn là đòi hỏi không thể thiếu của mỗi người. Tuy nhiên nhiều bạn trẻ hiện nay quá chú trọng vào việc học lý thuyết ở trường mà đôi khi quên mất phải thực hành – một điều hết sức quan trọng. Mối quan hệ giữa học và hành một lần nữa được nhấn mạnh qua câu: “Học đi đôi với hành”. Học là sự hiểu biết, là vốn kiến thức của mỗi con người. Con người có học là con người biết suy nghĩ, có nhận thức, có sự hiểu biết. Hành là thực hành, thực hiện, vận dụng những lý thuyết đã học bằng việc làm thực tế. Học kết hợp với hành không phải là vừa học vừa làm. Cho giả dụ, nếu bạn vừa ngồi ăn cơm hay rữa chén vừa học bài thì thử hỏi bạn có thuộc nỗi không? Sự kết hợp ta nói đến ở đây là việc thực hiện những lý thuyết đã học nhầm hiểu rõ, nắm vững những vấn đề mà phần lý thuyết đó đề cặp đến để có thể vận dụng chúng một nhanh chóng, chính xác trong thực tế sau này. Như khi ta học lý thuyết môn toán Lượng giác ở trường, ta thực hành những lý thuyết đó bằng cách làm thật nhiều bài tập để có thể nắm vững những lý thuyết ấy. Nói chung phương châm “học đi đôi với hành” là hoàn toàn chính xác. Nếu không kết hợp học với hành thì không thể đạt được hiệu suất cao trong công việc được. Bởi trong công việc cái người ta cần, quan tâm hàng đầu là sản phẩm-thành quả lao động chứ không phải là hiểu biết trên lý thuyết, một khi không đạt được chỉ tiêu đó thì dẫu cho có thành tích học tập tốt đến đâu thì ta cũng sẽ nhanh chóng bị xã hội đào thải, trỡ thành một kẻ thất bại đáng thương hại. Một kiến trúc sư đã tốt nghiệp ở truờng đại học danh tiếng với thành tích học tập rất xuầt sắc, vậy mà căn nhà do anh ta thiết kế ra lại không có chút thẳm mĩ, chất lượng ngôi nhà thì chỉ thuộc loại soàn soàn mà thôi. Một học sinh học tập rất tốt, điểm môn Công dân luôn cao, vậy mà khi ra đường trong thấy một bà lão ăn xin té ngã trên đường, không những không giúp đỡ mà ngược lại còn tỏ thái độ coi thường ghê tởm bà ấy, thiếu thực hành về mặt học vấn thì còn bù đấp lại chứ thiếu thực hành ở mặt đạo đức thì thật không thể chấp nhận. Một ngôi nhà không hoàn hảo thì còn có thể tạm sử dụng hoặc xây dựng lại, còn một con người có đạo đức suy thoái thì chỉ là đồ vô dụng. Một khi gạo đã nấu thành cơm, dù có chỉnh sửa nữa thì cái ác tâm trong đầu cũng chẳng thể nào mất đi được chỉ có nước đầu thai kiếp khác mới có thể sống tốt được, nếu không thì chỉ có thể làm hại người, xấu hổ đất nước mà thôi. Những ví dụ trên đã cho ta thấy phần nào tác hại của việc học không đi đôi với hành. Ngược lại, nếu bạn kết hợp tốt học với hành thì bạn sẽ đạt được nhìêu thành tựu. Không phải chỉ trong thời đại ngày nay mới cần phải kết hợp học với hành. Từ ngàn xưa, phương châm học kết hợp với hành đã được áp dụng không ít. Tuy nhiên, Kiến thức của nhân loại vô cùng phong phú, khoa học kĩ thuật ngày càng cao, nếu không học tập sẽ bị lạc hậu, không phù hợp với những cái mới lạ của thế giới. Mà muốn đạt kết quả cao nhất trong việc học, sự kết giữa hợp học với hành là điều không thể thiếu. Trong thời đại ngày nay, xã hội ngày một phát triển, đất nước ngày một hội nhập với thế giới, phương châm kết hợp học với hành trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Là người học sinh, trong thời gian học tập ở nhà trường,chúng ta cần phải chăm chỉ học tập kết hợp đi đôi với hành. Học bao gồm cả văn hoá, chữ nghĩa và khinh nghiệm của cuộc sống để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao về nhận thức, về chính trị xạ hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Và sau này, khi bước vào đời thì phải tiếp tục nâng cao trình độ hiểu biết, nâng cao chuyên môn để làm việc có hiệu quả hơn. Tóm lại, câu phương châm trên nêu rõ tầm quan trọng của sự kết hợp giữa học và hành. Thực hiện phương châm này đúng cách ta sẽ đạt hiệu quả cao trong học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp sao này, đồng thời góp phần tích cực vào việc xây dựng một đất nước phồn vinh tiến b

Câu trả lời:

Bàn về phương pháp học tập, xưa nay có rất nhiều ý kiến. Mỗi ý kiến đúc kết một kinh nghiệm quý báu góp phần rút ngắn khoảng cách trong hành trình chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Học đi đôi với hành là một trong những phương châm đó. Từ xưa tới nay, mối tương quan giữa học và hành được nhiều người quan tâm, bàn luận. Học quan trọng hơn hành hay hành quan trọng hơn học? Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu xem học là gì? Hành là gì ?

Học là hoạt động tiếp thu những tri thức cơ bản của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô giáo; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Mục đích của việc học là để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình, góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.

Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học vào thực tế công việc hằng ngày. Ví dụ như người thầy thuốc đem hiểu biết của mình học được ở trường Đại học Y Dược trong suốt sáu năm để vận dụng vào việc chữa bệnh cứu người. Những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, sân. bay, nhà ga, công viên, trường học… Những kĩ sư cơ khí chể tạo máy móc phục vụ sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp… Nông dân áp dụng khoa học kĩ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt để thu hoạch với năng suất cao… Đó là hành.

nghi-luan-xa-hoi-hoc-di-doi-voi-hanh

nghị luận xã hội học đi đôi với hành – văn mẫu 11

Học để hành, có nghĩa là phải học để làm cho tốt. Thực tế cho thấy có học vẫn hơn. Ông cha chúng ta đã khẳng định: Bất học bất tri lí, có nghĩa là không học thì không biết đâu là phải, là đúng. Người có học khác hẳn người vô học không phải chỉ ở chữ nghĩa mà còn ở nhiều thứ khác như trình độ nhận thức, khả năng ứng xử trong giao tiếp xã hội, khả năng giải quyết công việc trong những tình huống phức tạp… Mục đích của việc học là để làm cho mọi công việc được thực hiện với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Nếu chúng ta học những lí thuyết dù cao siêu đến đâu mà không vận dụng được vào thực tế thì đó chỉ là lí thuyết suông, tốn thời gian, tiền bạc mà vô ích, giống như truyện ngụ ngôn ngày xưa kể về người đàn ông mất bao công phu tìm thầy học nghề giết rồng để rồi suốt đời chẳng tìm thấy một con rồng nào cả.
Ngược lại, hành mà không học thì không thể trôi chảy. Không có lí thuyết soi sáng, chúng ta sẽ gặp khó khăn trong công việc. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen và kinh nghiệm thì tiến trình làm việc sẽ chậm và hiệu quả không cao. Cách làm việc cũ kĩ, lạc hậu ấy chỉ thích hợp với những hình thức lao động giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Trong thời đại công nghệ khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ như ngày nay thì cung cách làm việc ấy không còn phù hợp nữa.

Muốn đạt được hiệu quả cao trong công việc, con người phải được đào tạo bài bản, nghiêm túc, đến nơi đến chốn theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập, học tập không ngừng. Nắm vững lí thuyết, chúng ta mới có thể làm được những công việc phức tạp và tránh được những sai lầm đáng tiếc. Lí thuyết dẫn đường cho thực hành; thực hành bổ sung, hoàn thiện cho lí thuyết… Vì thế chúng ta không thể coi nhẹ vai trò vô cùng quan trọng của việc học mà phải đánh giá đúng mức mối quan hệ hữu cơ khăng khít giữa học và hành.

Ngày nay, phương châm học đi đôi với hành luôn được đề cao trong các cấp học nhưng việc thực hiện thì còn nhiều hạn chế.

Khi nói học đi đôi với hành là chúng ta đề cập đến mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn, Học đi đôi với hành có ý nghĩa thực sự quan trọng. Để đạt được hiệu quả cao, người học nên biết cân bằng giữa lí thuyết và thực tiễn sao cho hài hòa, hợp lí. Giữa lí thuyết và thực hành có mối quan hệ như hai chân của một con người, thiếu một chân thì con người chẳng thể đứng vững. Như vậy, học với hành giúp chúng ta vừa chuyên sâu kiến thức lại vừa thông thạo, hoàn thiện kĩ năng làm việc.

Có thể nói Bác Hồ là tấm gương tiêu biểu cho phương châm học đi đôi với hành. Bác đã từng khẳng định: lí luận phải đi đôi thực tiễn, lí luận mà không có thực tiễn chỉ là lí thuyết suông. Bác biết rất nhiều ngoại ngữ và sử dụng thành thạo không chỉ trong giao tiếp mà còn viết văn, viết báo bằng ngoại ngữ.

Những tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Pháp như: Con rồng tre, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu… Tập thơ Nhật kí trong tù và những bài thơ chữ Hán mà Bác sáng tác là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện lâu dài.

Học đi đôi với hành có ý nghĩa quan trọng và thiết thực đối với các ngành nghề, các môn kĩ thuật. Thật đáng tiếc cho những ai chỉ giỏi lí thuyết sách vở mà phải bó tay trước thực tiễn sinh động và phong phú hằng ngày của cuộc sống.

Học đi đôi với hành không chỉ bó hẹp trong nhà trường, không chỉ là một cách học để nắm vững kiến thức mà còn là sự vận dụng có hiệu quả những kiến thức ấy khi ra ngoài xã hội. Những gì được học phải đem áp dụng vào cuộc sống, chứ không phải học để biết rồi bỏ đó. Rất nhiều học sinh đã được học những lời hay ý đẹp trong trường nhưng khi bước ra đời thì lại có những ngôn từ hành động không đẹp, thậm chí đáng chê trách. Hãy biến những tri thức, những bài học cuộc đời đầy ý nghĩa mà ta thâu nhận được từ sách vở thành hiện thực. Như vậy thì những kiến thức đó mới trở nên thật sự có ý nghĩa.
Học đi đôi với hành là một phương châm giáo dục đúng đắn và khoa học, đề cập đến một phạm vi khá rộng với những biểu hiện phong phú, đa dạng. Việc kết hợp giữa lí thuyết và thực hành có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau. Thông qua thực hành, người học nắm chắc lí thuyết hơn vì lí thuyết ấy được biến thành việc làm và được kiểm nghiệm trong thực tiễn.

Điều quan trọng nhất là làm sao đưa lí thuyết vào thực tiễn để được kiểm nghiệm, cụ thể hóa bằng những sản phẩm có thực. Chẳng hạn, khi học xong lí thuyết một kiểu bài tập làm văn, học sinh phải thực hành bằng một bài làm văn cụ thể. Đặc biệt đối với môn ngoại ngữ, học không thể tách rời với hành. Việc hiểu nghĩa từ sẽ có hiệu quả hơn nếu người học biết sử dụng từ thường xuyên trong bất cứ tình huống giao tiếp nào. Như vậy thì việc nhớ từ mới trở nên chính xác và bền lâu trong tâm trí người học. Nếu bạn chỉ chăm chú học thuộc các thì trong tiếng Anh, các cấu trúc ngữ pháp trong khung đóng sẵn, bạn sẽ khó nhớ và mau quên. Tuy nhiên, nếu đem lí thuyết ấy vận dụng vào thực tiễn nói hoặc viết, bạn sẽ nhớ lâu hơn rất nhiều. Một bài học của môn giáo dục công dân về tình bạn chúng ta chỉ nghe thoáng qua như một mớ lí thuyết giáo điều, thế nhưng nếu thầy, cô giáo cụ thể hóa những khái niệm gọi là chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ, hi sinh… bằng thực tế cuộc sống quanh ta, chúng ta sẽ thấy bài học ấy cực kì sống động và giàu ý nghĩa.

Có người đã từng nói: Mọi lí thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy có phần cực đoan nhưng câu nói đó đã khẳng định đúng về giá trị của thực tiễn trong đời sống con người.

Quả thực, nếu học mà không có hành thì việc học chưa trọn vẹn. Lí thuyết mà không được đem ra thực hành thì đó chỉ là lí thuyết suông. Không có hành, người học dường như chỉ nắm lí thuyết một cách máy móc, nửa vời, dẫn đến kết quả là những kiến thức đó sẽ trở nên mơ hồ, không chắc chắn.

Một thực tế đáng buồn là từ trước đến nay, nhiều học sinh đã sai lầm trong cách học, dẫn đến hiệu quả không cao vì chỉ khư khư ôm lấy lí thuyết mà không chịu thực hành. Một phần do các bạn ấy chưa nắm được tầm quan trọng của phương châm học đi đôi với hành, một phần xuất phát từ tâm lí e ngại, lười hoạt động. Tuy nhiên, như trên đã nói, chúng ta phải biết kết hợp một cách hài hòa giữa lí thuyết và thực tiễn. Việc tuyệt đối hóa bất cứ một phương diện nào cũng sẽ phản tác dụng. Nếu quá đề cao lí thuyết, bạn sẽ rơi vào cách học máy móc, nặng nề, sách vở. Nếu thiếu những nền tảng lí thuyết cơ bản, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn khi làm việc.

Học đi đôi với hành là kim chỉ nam cho mọi người trên con đường chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và tạo dựng sự nghiệp. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Mình rất quan tâm đến học và hành. Bác khẳng định: Học để hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Quan niệm trên là phương châm đúng đắn cho ngành giáo dục nước nhà nói chung và cho mỗi con người nói riêng.