Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Thành phố Hồ Chí Minh , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 299
Số lượng câu trả lời 5620
Điểm GP 1165
Điểm SP 8078

Người theo dõi (1576)

Hello
Linh Lại
Cao ngocduy Cao
Minz Ank
qwerty brother

Đang theo dõi (43)

Eri
Eri
Rain
Hà Đức Thọ
Lê Dung

Câu trả lời:

 

Phút giải lao của các chiến sĩ trực chiến trên đảo. Ảnh: A.Đ

(THO) - Bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đăng trên báo Thanh Niên ngày 28 tháng 5 năm 2011, sau sự kiện ngày 26 tháng 5 năm 2011, tầu hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp quang thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh thuộc Tập đoàn dầu khí Việt Nam trong vùng biển Việt Nam. Bài thơ đã được bạn đọc cả nước mến mộ và nhạc sĩ Phạm Minh Thuận đã phổ nhạc bài hát. Ngày 1-5-2014 vừa qua, Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương 981 lên vùng biển chủ quyền Việt Nam, gây nên làn sóng phản đối Trung Quốc trong và ngoài nước. Dịp này, bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến lại được nhiều người nhắc đến.

Bài thơ có mười khổ, mỗi khổ bốn câu theo thể thơ tự do.  Mỗi câu thơ đọc lên,  ta cảm như có tiếng nấc uất nghẹn, đau xót tận tâm can khi những câu thơ dẫn dắt về khoảng thời gian dằng dặc mấy ngàn năm, máu người Việt tưới xanh cỏ nước Việt,  nhằm chống giặc ngoại xâm để giữ lấy hòa bình và độc lập dân tộc:“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/.../ Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc/ Các con nằm thao thức phía Trường Sơn/ Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả/ Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn”. Đọc khổ thơ mở đầu của bài,  ta bỗng nhớ đến câu ca của những người dân biển: “Đến mùa tu hú kêu thanh/ Cá chuồn đã mãn mà anh chưa về”. Tiếng tu hú hằng đêm khắc khoải kêu trên những ngôi mộ gió nhân dân vun lên từ cát ở đảo Lý Sơn, để ghi nhớ những linh hồn hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải mấy trăm năm trước, theo lệnh vua ban, vượt ngàn hải lý, lớp cha đi trước, con tiếp bước theo sau, bằng thuyền ván ra trấn giữ Hoàng Sa. Biết bao vọng phu đời này qua đời khác tiễn chồng đi giữ nước mà một đi không hẹn ngày về: “Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn/ Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy/ Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân”. Câu thơ trên đẹp như một bức tranh với những vần thơ chỉ đọc một lần, những hình ảnh bi tráng đã khắc sâu vào tâm trí chúng ta:“  ... bóng giặc chập chờn”, “ Máu đã đổ...”, “ Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân”. Thi pháp của văn chương dù giỏi kỹ năng bao nhiêu trong cách dùng từ,  cũng không thể thoát ra khỏi hiện thực. Chính hiện thực là viên ngọc tỏa sáng hào quang cho ý hay, lời đẹp bay lên. Vì vậy, hình ảnh người lính hy sinh để bảo vệ biển đảo quê hương: “Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân” là một hình ảnh đẹp tráng lệ, không hề mang yếu tố bi lụy hay kém phần dũng khí... Cứ hãy để “hơi thở “ nóng hổi của thời cuộc cho dù  là những ngọn lửa đau đớn thổi vào văn chương, thì văn chương ấy mới thực sự “vị nhân sinh”, mới thực sự hay, đẹp vì sự thật. Với câu:“Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử/ Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng”, tác giả chủ định đưa vào nhiều sự kiện lịch sử và dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, giàu gợi tưởng để muốn chúng ta nhớ lại cảnh hàng ngàn chiến thuyền của cánh quân thủy Ô Mã Nhi đã bị quân Đại Việt đánh chìm ở cửa sông Bạch Đằng, 30 vạn quân do Thoát Hoan cầm đầu tấn công nước Việt bằng đường bộ bị đánh tan tác nơi biên giới. Vì muốn cứu Vương Thông mà Liễu Thăng đem 10 vạn quân, 2 vạn ngựa tràn sang nước Việt để rồi  bị chặt đầu ở ải Chi Lăng... Là nước lớn, có lúc họ vỗ về chúng ta,  khi họ tàn sát chúng ta trong quá khứ, cũng có thời họ vừa bắt tay hữu hảo, nhưng rồi lại đem xe tăng và những binh đoàn rầm rập húc đổ mốc biên, tàn sát dân lành, giết bao chiến sĩ khi áo chiến sĩ chúng ta chưa kịp rũ bụi bom ở chiến trường miền Nam, đã vội vàng ra trấn nơi cửa Bắc...

Văn học nghệ thuật ngoài “vị nhân sinh”, những tác phẩm có giá trị còn mang tính dự báo về số phận con người, số phận cả đất nước: “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa/ Đã mười lần giặc đến tự biển Đông”  và: “Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn”. Sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển Việt Nam, dẫu đã kìm nén, nhưng sóng lòng 90 triệu dân nước Việt đã nổi giận:“Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể/ Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù/ Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ/ Thương Hòn Mê bão tố phía âm u”. Từ sự kiện Hoàng Sa, không ai biết trước hòn đảo nào của nước Việt Nam sẽ được bình yên trước tham vọng của nước lớn, kể cả đảo Lý Sơn con tú hú vẫn hằng đêm kêu khắc khoải, hay đảo Cồn Cỏ bây giờ con cua đá cũng chẳng thiết rong chơi, đảo Hòn Mê chẳng còn mơ màng nhìn vẻ đẹp Biện Sơn như ngày nào nữa... Tiếng sóng biển Đông đã dội vào ký ức, dội vào tiềm thức và dội vào bao trái tim con dân Việt cũng như những trái tim của tất cả mọi người yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Chúng ta nào có ao ước gì hơn Độc lập - Hòa bình - Tự do - Hạnh phúc. Chúng ta muốn bình yên để nỗ lực dựng xây đất nước, tiến kịp các nước anh em, đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân, không hề muốn bất kỳ một phát súng nào nổ ra trên đất nước Việt Nam nữa, dẫu lòng vẫn đau đáu một niềm: “ Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát/ Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời”.

Toàn bộ bài thơ kết lại là niềm thương đau đất nước hàng ngàn năm dày đặc vết thương với lòng yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc và truyền thống yêu nước không bao giờ vơi cạn. Giờ đây tinh thần đó vẫn tràn đầy với khí phách hiên ngang, tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sức mạnh chính nghĩa đời đời của dân tộc Việt Nam. Một  khi đã bị dồn ép, thì sức mạnh đoàn kết quật cường của dân tộc sẽ chiến thắng tất cả các thế lực mang dã tâm xâm lược. Câu kết trong bài thơ đã nói lên điều đó: “Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất/ Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.

Cán bộ, chiến sĩ Đảo Mê anh hùng luôn cảnh giác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. 

Câu trả lời:

Hồng Bàng thị (2879 TCN-2525 TCN)
Chiến tranh Viêm Đế - Xích Quỷ
Hùng Vương (2524 TCN - 258 TCN)
Chiến tranh Ân - Văn Lang
Chiến tranh Văn Lang-Âu Lạc
An Dương Vương (257 TCN-208 TCN)
Chiến tranh Tần - Âu Lạc (214 TCN-210 TCN)
Chiến tranh Nam Việt - Âu Lạc
Nhà Triệu (208 TCN-111 TCN)
Chiến tranh Hán-Nam Việt lần thứ nhất (191 TCN-180 TCN)
Chiến tranh Hán-Nam Việt lần thứ hai (113 TCN - 112 TCN)
Chiến tranh Hán-Nam Việt lần thứ ba (111 TCN)
Bắc thuộc lần 1 (111 TCN - 40)
Khởi nghĩa Tây Vu Vương (111 TCN)
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40)
Trưng Nữ Vương (40-43)
Chiến tranh Hán-Việt, 42-43
Bắc thuộc lần 2 (43 - 543)
Cuộc khởi nghĩa chống Đông Hán của nhân dân quận Tượng Lâm (137-138)
Cuộc nổi dậy chống nhà Đông Hán của nhân dân Nhật Nam và Cửu Chân (144)
Cuộc nổi dậy của Chu Đạt chống lại chính quyền Đông Hán (157-160)
Khởi nghĩa Lương Long (178-181)
Cuộc nổi dậy của quân phiến loạn giết chết thứ sử Chu Phù (187)
Cuộc khởi nghĩa thành lập nước Lâm Ấp của nhân dân quận Tượng Lâm (192)
Cuộc binh biến giết Thứ sử Trương Tân (200)
Cuộc chiếm đóng Giao Châu của Lã Đại nước Đông Ngô (226)
Khởi nghĩa chống nhà Ngô của Triệu Trinh Nương (246–248)
Cuộc chiến tranh giành giật Giao Châu giữa Tây Tấn và Đông Ngô (268-271)
Cuộc nổi loại của thú binh Triệu Chỉ (299)
Cuộc binh biến của đốc quân Lương Thạc (317-323)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp của Dương Bình và Hoan Toại (351)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp của Nguyễn Phu (353)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp của Ôn Phóng Chi (359)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp của Đỗ Viện (399)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp lần nhất của Đỗ Tuệ Độ (413)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp lần thứ hai của Đỗ Tuệ Độ (415)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp lần thứ ba của Đỗ Tuệ Độ (420)
Cuộc chiến tranh chống Lâm Ấp của Nguyễn Di Chi (431)
Cuộc tấn công đánh phá Lâm Ấp của Đàn Hòa Chi (445-446)
Cuộc nổi dậy chống Lưu Tống của Lý Trường Nhân (468)
Cuộc chiến đấu chống Nam Tề của Lý Thúc Hiến (485)
Khởi nghĩa đánh đuổi quan đô hộ Tiêu Tư của Lý Bí (541)
Cuộc chiến tranh chống quân Lương tái xâm lược của nghĩa quân Lý Bí (542)
Cuộc chiến đánh đuổi quân Lâm Ấp của nghĩa quân Lý Bí (543)
Nhà Tiền Lý (544 - 602)
Cuộc chiến chống quân Lương tái xâm lược lần thứ hai (545 - 550)
Chiến tranh Dã Năng - Vạn Xuân (557 - 571)
Chiến tranh Tùy - Vạn Xuân (602)
Bắc thuộc lần 3 (602 - 938)
Các cuộc chiến tranh và khởi nghĩa thời Tùy-Đường (602-905)

Cuộc chiến tranh xâm lược Lâm Ấp của nhà Tùy (605)
Khởi nghĩa Lý Tự Tiên - Đinh Kiến (687)
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-723)
Cuộc chiến chống quân Chà Và xâm lược của Cao Chính Bình (767)
Khởi nghĩa Phùng Hưng (771-791)
Cuộc nổi dậy đánh đuổi quan đô hộ Bùi Thái (803)
Cuộc khởi nghĩa của người Tày-Nùng chống lại nhà Đường (819-820)
Cuộc nổi dậy đánh đuổi quan đô hộ Hàn Ước (828)
Nam Chiếu đánh sang châu Kim Long lần thứ nhất (832)
Nam Chiếu đánh sang châu Kim Long lần thứ hai (846)
Cuộc nổi dậy đánh đuổi quan đô hộ Lý Hộ (860)
Cuộc cướp phá An Nam lần thứ nhất của người Đại Lễ (860)
Cuộc cướp phá An Nam lần thứ hai của người Đại Lễ (862)
Cuộc chiến tranh chống sự xâm nhập của người Đại Lễ tại An Nam đô hộ phủ (863 - 866)
Thời kì tự chủ Việt Nam (905 - 938)

Chiến tranh Tĩnh Hải Quân - Nam Hán lần thứ nhất (923 hoặc 930)
Chiến tranh Tĩnh Hải Quân - Nam Hán lần thứ hai (931)
Cuộc biến loạn của Kiều Công Tiễn (937-938)
Chiến tranh Tĩnh Hải Quân - Nam Hán lần thứ ba (938)
Nhà Ngô (938 - 967)
Loạn 12 sứ quân (944-968)
Cuộc tranh chấp ngôi báu trong cung đình thời Dương Tam Kha (944-950)
Cuộc chiến giành ngôi báu sau cái chết của Ngô Xương Văn (965)
Nhà Đinh (968 - 980)
Cuộc nổi dậy chống Lê Hoàn của các cựu thần nhà Đinh (979)
Nhà Tiền Lê (981 - 1009)
Chiến tranh Tống - Việt, 981
Chiến tranh Việt-Chiêm (982-983)
Cuộc bình định phản loạn ở Cử Long (1001)
Chiến tranh kế vị thời Tiền Lê (1005)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Cuộc nổi dậy thành lập nước Trường Sinh của Nùng Tồn Phúc (1038-1039)
Cuộc nổi dậy thành lập nước Đại Lịch của Nùng Trí Cao (1041)
Chiến tranh Việt-Chiêm 1044
Cuộc nổi loạn lần thứ hai của Nùng Trí Cao (1048)
Cuộc nổi dậy thành nước Đại Nam của Nùng Trí Cao (1052-1055)
Chiến tranh Việt-Chiêm 1069
Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077
Cuộc phản loạn của người giáp Cổ Hoằng (1192)
Cuộc cướp phá của người Chiêm Thành ở vùng biển Nghệ An (1203)
Cuộc nổi dậy của Phí Lang và Bảo Lương ở Thanh Hóa (1203-1206)
Cuộc nổi loạn của người Man ở núi Tản Viên (1207)
Cuộc khởi nghĩa của Đoàn Thượng và Đoàn Chủ (1207-1209)
Cuộc nổi loạn của Phạm Du (1207-1209)
Loạn Quách Bốc (1209)
Cuộc nổi dậy của Nguyễn Nộn (1213-1219)
Cuộc nổi dậy lần thứ 2 của Đoàn Thượng (1214-1217)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Cuộc nổi loạn của An Sinh Vương Trần Liễu (1237)
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1 (1258)
Chiến tranh Nguyên Mông-Chiêm Thành (1282-1283)
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 (1284-1287)
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 (1288)
Xung đột Đại Việt-Chiêm Thành
Cuộc can thiệp quân sự sang Chiêm Thành đánh đuổi vua Chế Năng (1318)
Cuộc tranh giành ngôi báu ở Chiêm Thành giữa Chế Mộ và Trà Hòa Bố (1342)
Cuộc can thiệp quân sự sang Chiêm Thành cứu giúp vua Chế Mộ (1353)
Cuộc cướp phá Đại Việt lần thứ nhất của người Chiêm Thành (1361)
Cuộc cướp phá Đại Việt lần thứ hai của người Chiêm Thành (1362)
Cuộc cướp phá Đại Việt lần thứ ba của người Chiêm Thành (1365)
Cuộc cướp phá Đại Việt lần thứ tư của người Chiêm Thành (1366)
Chiến tranh Việt-Chiêm 1367-1396
Cuộc tấn công Chiêm Thành lần thứ nhất của Đại Việt (1367-1368)
Biến loạn Đại Định trong nội bộ vương thất nhà Trần (1369-1370)
Cuộc tấn công Chiêm Thành lần thứ hai của Đại Việt (1371)
Cuộc tấn công Chiêm Thành lần thứ ba của Đại Việt (1376-1377)
Cuộc bắc tiến lần thứ nhất của người Chiêm Thành (1377)
Cuộc bắc tiến lần thứ hai của người Chiêm Thành (1378)
Cuộc bắc tiến lần thứ ba của người Chiêm Thành (1380)
Cuộc bắc tiến lần thứ tư của người Chiêm Thành (1382)
Cuộc bắc tiến lần thứ năm của người Chiêm Thành (1383)
Cuộc bắc tiến lần thứ sáu của người Chiêm Thành (1389)
Cuộc bắc tiến lần thứ bẩy của người Chiêm Thành (1390)
Cuộc xung đột biên giới Đại Việt-Chiêm Thành lần thứ nhất (1391)
Cuộc xung đột biên giới Đại Việt-Chiêm Thành lần thứ hai (1396)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407
Chiến tranh Minh-Đại Ngu (1406-1407)
Bắc thuộc lần 4 (1407 - 1427)
Cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của quý tộc Trần (1407 - 1414)
Cuộc nổi dậy của Nông Văn Lịch ở Lạng Sơn (1410)
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)
Nhà Lê sơ (1428 - 1527)
Cuộc nổi dậy của người Thái Trắng (1431-1432)
Binh biến Diên Ninh (1459-1460)
Chiến tranh Việt-Chiêm 1471
Chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (1467-1480)
Cuộc nổi dậy lật đổ Quỷ Vương Lê Uy Mục (1509)
Cuộc khởi nghĩa của Phùng Chương ở Tam Đảo
Cuộc khởi nghĩa của Trần Tuân (1511-1512)
Cuộc khởi nghĩa của cha con Trần Cảo-Trần Thăng (1516 - 1521)
Cuộc nổi loạn của hoàng thân quốc thích và họa quyền thần thời Lê mạt (1518-1526)
Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong giai đoạn này, ở Việt Nam xuất hiện ba triều đại bao gồm: Nhà Mạc (1527 - 1677), Nhà Lê trung hưng (1533 - 1789) và Nhà Tây Sơn (1778 - 1802). Ngoài ra còn có 3 tập đoàn quân phiệt cát cứ gồm: Chúa Trịnh (1545-1787), Chúa Nguyễn (1558-1802) và Chúa Bầu (1527-1699). Đây là giai đoạn rối ren loạn lạc nhiễu nhương lộn xộn phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam.

Cuộc tấn công nhằm khôi phục nhà Hậu Lê của Nguyễn Kim (1531)
Chiến tranh Lê-Mạc (1533-1677)

Chiến tranh Nam Bắc triều (1533-1592)
Cuộc nổi dậy của Mạc Chính Trung chống lại Mạc Tuyên Tông (1546-1547)
Cuộc cướp phá sang Trung Quốc nhằm giải cứu Mạc Chính Trung (1549)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ nhất (1551)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ hai (1554)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ ba (1555)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ tư (1557)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ năm (1559-1562)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ sáu (1564-1565)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ bảy (1570)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ tám (1571)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ chín (1572)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười (1573-1574)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười một (1575)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười hai (1576)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười ba (1577)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười bốn (1578-1579)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười năm (1580-1583)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười sáu (1584-1585)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười bảy (1587)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười tám (1588)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ mười chín (1589)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ hai mươi (1592-1593)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ hai mốt (1600-1601)
Chiến tranh Lê-Mạc lần thứ hai hai (1623-1625)
Cuộc xung đột dai dẳng với quân Lê-Trịnh của họ Mạc khi cát cứ Cao Bằng (1638-1677)
Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1672)

Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ nhất (1627)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ hai (1633)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ ba (1643)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ tư (1648)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ năm (1655-1660)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ sáu (1661-1662)
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ bẩy (1672)
Nội loạn và Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài

Cuộc nội loạn trong phủ chúa của Trịnh Lịch và Trịnh Sầm (1645)
Loạn kiêu binh lần thứ nhất (1674)
Cuộc khởi nghĩa Tam Đảo của hoà thượng Nguyễn Dương Hưng (1737)
Cuộc tạo phản của giặc Ngân Già Vũ Đình Dung (1739-1740)
Cuộc khởi nghĩa của Đô Tế và Nguyễn Danh Phương (1739-1751)
Cuộc khởi nghĩa của chúa Mường Thanh Hoàng Công Chất (1739-1769)
Cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật (1740-1770)
Cuộc chính biến lật đổ chúa Trịnh Giang (1740)
Loạn kiêu binh lần thứ hai (1741)
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Cừ và Nguyễn Hữu Cầu (1741-1743)
Các cuộc xung đột ở Đàng Trong

Cuộc hành quân đánh tan sự cướp phá của người Lan Xang (1621)
Cuộc tấn công đánh bại Chiêm Thành mở mang bờ cõi lần thứ nhất (1629)
Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong (1641-1643)
Cuộc tấn công đánh bại nước Chiêm Thành mở mang bờ cõi lần thứ hai (1653)
Cuộc can thiệp vào công việc nội bộ của Thủy Cao Miên (1658)
Cuộc chiến tranh quy mô lớn bình định Chân Lạp của chúa Nguyễn (1689-1690)
Cuộc chiến tranh xóa sổ hoàn toàn nước Chiêm Thành trên vũ đài lịch sử (1692-1693)
Cuộc phản công giành lại vùng đất Sài Gòn-Gia Định của người Chân Lạp (1699)
Cuộc can thiệp sang nội bộ Chân Lạp giúp Nặc Yêm lên ngôi (1711-1714)
Cuộc nổi dậy giành giật lại khu vực Cửu Long Giang của người Chân Lạp (1729-1735)
Chiến tranh Cao Miên-Chúa Nguyễn (1755-1756)
Cuộc can thiệp quân sự của chúa Nguyễn sang Cao Miên lần thứ hai (1757)
Cuộc kháng cự chống quân Xiêm La của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên (1769)
Xung đột Xiệm La-Chúa Nguyễn (1771-1772)
Chiến tranh thời Tây Sơn

Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn, 1771-1785
Cuộc nam tiến của chúa Trịnh chống quân Tây Sơn (1774-1775)
Loạn kiêu binh lần thứ ba (1782-1786)
Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Trịnh lần thứ nhất (1786)
Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Trịnh lần thứ hai (1786)
Cuộc biến loạn của Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm (1786-1788)
Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn, 1787-1802
Chiến tranh Việt - Xiêm (1784)
Cuộc chiến tranh nội bộ của anh em nhà Tây Sơn (1787)
Chiến tranh Thanh-An Nam (1788-1789)
Cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các tướng lĩnh nhà Tây Sơn (1795)
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)[sửa | sửa mã nguồn]
Nổi dậy ở Đá Vách thời Nguyễn (1803-1885)
Cuộc nổi dậy Phan Bá Vành (1821-1827)
Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương (1832-1838)
Chiến tranh Việt–Xiêm (1833-1834)
Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835)
Cuộc nổi dậy Nông Văn Vân (1833-1835)
Cuộc nổi dậy Ba Nhàn, Tiền Bột (1833-1843)
Các cuộc nổi dậy ở Hà Tiên (1840)
Cuộc nổi dậy ở Ba Xuyên (1841)
Cuộc nổi dậy ở Thất Sơn (1841)
Cuộc nổi dậy Lâm Sâm (1841)
Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845)
Cuộc nổi dậy Cao Bá Quát (1854-1856)
Cuộc nổi dậy Tạ Văn Phụng (1861-1865)
Cuộc khởi nghĩa Cai Vàng (1862-1864)
Thời Pháp thuộc (1858-1956)[sửa | sửa mã nguồn]

quân Pháp đổ bộ vào Thuận An

quân Pháp hạ thành Bắc Ninh năm 1884
Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884)

Cuộc khởi nghĩa của cha con Trương Định và Trương Quyền (1859-1867)
Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861-1868)
Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân (1862-1875)
Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873)
Chiến tranh Pháp-Thanh (1884-1885)
Cuộc tấn công tại kinh thành Huế 1885
Phong trào Cần Vương (1885-1896)

Khởi nghĩa Cần Vương (1885-1888)
Cuộc khởi nghĩa của Bạch Xỉ Hoàng Đế Đoàn Chí Tuân (1886-1896)
Nghĩa hội Quảng Nam (1885-1887)
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895)
Khởi nghĩa Nguyễn Xuân Ôn (1885-1887)
Khởi nghĩa Đoàn Doãn Địch và Mai Xuân Thưởng (1885-1887)
Khởi nghĩa Lê Thành Phương (1885-1887)
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889)
Khởi nghĩa Hưng Hóa (1885-1890)
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887)
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886-1892)
Khởi nghĩa Thanh Sơn (1890-1892)
Những cuộc chiến tranh và khởi nghĩa khác


Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés)

Quân đội Nhật tiến vào Hải Phòng ngày 24/11/1940
Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)
Khởi nghĩa N'Trang Lơng (1911-1935)
Chiến tranh Vui Tươi (1914-1918)
Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917-1918)
Cuộc bạo động Lạng Sơn (1921)
Cuộc bạo động Yên Bái (1930)
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)
Phong trào Dân chủ Đông Dương (1936-1939)
Chiến tranh Thế Giới (1939-1945)
Nam Kỳ khởi nghĩa (1940)
Khởi nghĩa Bắc Sơn (1940)
Chiến dịch Đông Dương (1940)
Chiến tranh Pháp-Thái (1940-1941)
Binh biến Đô Lương (1941)
Cao trào kháng Nhật cứu nước (1941-1945)
Cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương của đế quốc Đại Nhật Bản (1945)
Khởi nghĩa Ba Tơ (1945)
Tổng khởi nghĩa Hà Nội (1945)
Cách mạng tháng Tám (1945)
Cuộc xung đột giữa Việt Nam và liên quân Anh-Pháp-Nhật (1945-1946)
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954)

Câu trả lời:

Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.

Các biểu hiện của biến đổi khí hậu: Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung; Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái đất; Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển; Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơđe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người; Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác; Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.

Tác động của biến đổi khí hậu: 

Biến đổi khí hậu đưa đến những tác động bất lợi cho sức khỏe con người với những chứng bệnh do muỗi truyền hay các loại bệnh tật từ nguồn nước dơ bẩn và thời tiết nóng bức gây nên…Tác động của biến đổi khí hậu: lên hệ thống tự nhiên và sinh thái khiến nhiệt độ tăng từ 1-2,50C, tác động đến sản xuất lương thực khiến sản lượng lương thực giảm đi, tác động đến mực nước biển khiến mực nước biển dâng cao gây ngập trên diện rộng, tác động đến công nghiệp và cư dân làm gia tăng thời tiết cực đoan đặc biệt ở những vùng nhiều thiên tai có thể gặp rủi ro và tổn thất nghiêm trọng. . . .

Tại phiên khai mạc ngày 7/4/2014 ở Berlin, kỳ họp của Nhóm làm việc thứ ba thuộc phúc trình đánh giá thứ năm về vấn đề biến đổi khí hậu tiến sĩ Rajendra Pachauri, chủ tịch của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu – IPCC đã phát biểu rằng: “Xin phép cho tôi được nhắc lại điều mà tôi đã nêu ra tại Yokohama là tác động của tình trạng biến đổi khí hậu sẽ không từ nơi nào, vùng nào trên Trái Đất hết!”

 Tác động của biến đổi khí hậu tới Việt Nam:

 

 Việt Nam được đánh giá là một trong những nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng bị tổn thương nghiêm trọng nhất do nước biển dâng trên toàn thế giới. Biến đổi khí hậu làm thay đổi chế độ và lượng mưa, làm các hiện tượng thời tiết cực đoan diễn ra với tần suất và cường độ ngày càng cao hơn, gia tăng hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, đất và nước bị nhiễm phèn nghiêm trọng. Hiện tượng triều cường, nước biển dâng diễn ra ngày càng phức tạp tại các tỉnh/thành Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh. Chính phủ dự báo nếu mực nước biển tăng 1 m, thì hơn 20% diện tích thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị lụt, 10-12% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và cả nước sẽ thiệt hại 10% GDP.  Hiện tượng giông, tố, lũ quét và sạt lở đất diễn ra với chiều hướng ngày càng tăng tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Sơn La, Lai Châu…Theo ông Nguyễn Thái Lai – Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đánh giá: “Lũ đến sớm hơn và rút muộn hơn dẫn đến khó khăn trong việc tiêu thoát nước và bố trí phòng chống lũ lụt. Theo dự báo đến năm 2050, diện tích ngập lụt có thể chiếm tới 89% diện tích đồng bằng, tăng 20% so với diện tích ngập lũ năm 2000. Bên cạnh đó hạn hán và xâm nhập mặn đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, phát triển kinh tế vùng đồng bằng.

 

Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam:

Trước những hậu quả do biến đổi khí hậu mang lại, tháng 7/2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu trong đó nhấn mạnh đến mục tiêu của Chương trình nhằm đánh giá mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn.

Cho đến nay, đã có hơn 300 văn bản có nội dung liên quan đến chính sách và hướng dẫn thực thi chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu đã được các ngành, các cấp, các địa phương ban hành. Tuy nhiên, các chuyên gia quốc tế và các nhà quản lý chuyên môn tại cuộc hội thảo chuyên đề do Uỷ ban KHCNMT, Viện Rosa Luxemburd Đông Nam Á phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa đều nhận định người dân chưa có sự chuẩn bị, chưa biết đến các phương án và biện pháp phòng ngừa để bảo vệ bản thân và gia đình trước những tác động của thiên tai.

Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ việc các văn bản liên quan đến chính sách về đối phó với biến đổi khí hậu chưa được đặt trong bối cảnh thực tế để đánh giá toàn diện các tác động của biến đổi khí hậu, việc ứng phó chưa được thực hiện đầy đủ, chưa có hướng dẫn cụ thể của trung ương về quy trình tích hợp lồng ghép. Vấn đề quan trọng hơn nữa đó là chưa huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương – yếu tố thành công giúp nâng cao hiệu quả bền vững của Chương trình. Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách cần phải được giải quyết xuất phát từ nhu cầu của địa phương gắn với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trong đó chú trọng đến việc nâng cao năng lực, ưu tiên cho những đối tượng dễ bị tổn thương nhiều nhất.