Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 87
Số lượng câu trả lời 1525
Điểm GP 195
Điểm SP 1855

Người theo dõi (273)

Đang theo dõi (17)


Câu trả lời:

Cầu thang rất quan trọng trong giao thông theo trục đứng của ngôi nhà. Theo phong thủy, cầu thang là điểm khởi đầu dẫn luồng khí trong lành đến các phòng sinh hoạt của cả ngôi nhà. Vì thế điểm khởi đầu của cầu thang trong nhà phải sáng sủa, thông thoáng và được đặt vào cung “lành”, hướng tốt.

 

Không nên đặt cầu thang giữa nhà. Cầu thang chạy thẳng ra cửa chính sẽ làm tiền của ''chảy'' mất. Bạn có thể khắc phục bằng cách uốn cong mấy bậc đầu, vừa cách điệu vừa hợp phong thuỷ.

Cầu thang uốn hình cánh cung giúp khí lưu chuyển dễ dàng, nhưng nếu xoáy trôn ốc (hình tròn) thì không tốt, giống như mở nút chai nguy hiểm. Bậc thang chỉ có tâm nằm ngang, không có tâm đứng, hở bậc, thiết kế như vậy là vượng khí thoát ra ngoài giống lỗ hổng trong nhà, đều không tốt. Nên lỡ chạm phải điều cấm kỵ thì khắc phục bằng tấm gương, khánh nhạc, chậu cây hoặc đèn sáng, tuỳ trường hợp cụ thể.

 

Tổng số các bậc thang phải tuân theo thuyết trường sinh, nghĩa là tuân theo chuỗi sinh - lão - bệnh - tử. Theo đó, tổng số bậc mỗi tầng khi đem chia cho 4, số dư còn lại sẽ ứng với: 1 - Sinh, 2 - Lão, 3 - Bệnh, 4 - Tử. Nếu chia hết thì bậc cuối cùng rơi vào chữ "tử" là tuyệt đối không tốt, cần phải xây số bậc cầu thang là số lẻ sao cho bậc dư là con số 1 - chữ"sinh". Chính vì thế mà người ta còn gọi đây là nguyên tắc 4 + 1.

Điều này không những đảm bảo thuận tiện về sinh hoạt, đồng thời cũng mang lại cho chúng ta cảm giác yên tâm, thoải mái trong ngôi nhà của mình. Số lượng bậc thang được tính từ bậc thứ nhất cho tới điểm kết thúc(chiếu tới, hành lang). Nếu có chiếu nghỉ thì chiếu nghỉ được tính nhưmột bậc thang bình thường.

Kiểu cầu thang

Có thể thiết kế cầu thang theo nhiều kiểu:

Kiểu tấm đan sàn bê tông cốt thép: Kiểu này người ta vỉa bậc bằng gạch, dùng cốn 2 bên hoặc 1 bên (bên kia chèn vào tường), cốn ở giữa kiểu cánh chim.
Kiểu gấp khúc (hình răng cưa): bằng bê tông cốt thép, không có tấm đan ở dưới. Kiểu này trông đẹp nhưng khó thi công, phải đổ bê tông toàn khối theo từng bậc.
Cầu thang tròn: có thể dùng 1 trụ bê tông cột thép ở giữa và hoàn tấtcác mặt bậc vào cột hoặc là tấm đan hình xoáy ốc cao dần lên.
Cầu thang liền 1 dải: rất ít làm vì quá dài. Thông thường, nên cáchđiệu thành 2 đợt hoặc theo hình chữ U, 3 đợt. Bậc thang được chia đềucho các đợt thang, hoặc bố trí theo kiểu đợt nhiều đợt ít, tuỳ mặtbằng. Giữa hai đợt thang, chân nghỉ không có bậc nhưng nền nhà hẹp vẫncó thể đặt thêm vài bậc, không nên chỉ đặt một bậc, dễ gây hụt hẫng.
Các điểm cần lưu ý:

 

Lan can cần thoáng, nên dùng hoa sắt uốn đẹp hơn xây gạch đặc.
Vật liệu ốp mặt ngoài chủ yếu phủ granito ốp đá, nhưng đẹp và sang nhất là dùng gỗ ốp toàn bộ với tay vịn bằng gỗ nhuộm màu thẫm.
Phần mép bậc không trang trí quá nhiều gờ phức tạp vì đó là nơi chân người đi dễ đụng phải, có thể vấp ngã.
Mỗi thang bậc cũng nên làm phẳng, không dốc vào phía trong hay bên ngoài.
Một số khái niệm và những thông số kỹ thuật với cầu thang nhà dân dụng:

 

Chiều rộng của thân thang: Trong kiến trúc nhà ở dân dụng hiện nay, cầu thang thường rộng từ 0,9 - 1,2m.
Độ dốc của cầu thang: Độ dốc của cầu thang được quyết định bởi tỉ lệchiều cao và chiều rộng của bậc thang, có quan hệ mật thiết với khoảng rộng của bước đi, được tính bằng công thức 2h + b = 600mm (trong đó: hlà chiều cao bậc thang; b là chiều rộng bậc thang). Trong các côngtrình kiến trúc, độ cao của bậc thang trong nhà thường từ 150mm -180mm, chiều rộng tương ứng từ 240 - 300mm.
Kích thước của chiếu nghỉ: Chiều rộng của chiếu nghỉ không được nhỏ hơn chiều rộng của thân thang, đồng thời phải thuận tiện trong quá trình vận chuyển.
Chiều cao của lan can: Thông thường, chiều cao của lan can có liên quan mật thiết với độ dốc của cầu thang. Với cầu thang không dốc, lan can nên được làm cao một chút.Chiều cao của lan can được tính từ trung tâm của mặt bậc thang đến mặt trên của tay vịn là 900mm.

Câu trả lời:

-Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Lạm phát được đẩy lùi và kiềm chế ở mức một con số.
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tỷ lệ tăng trưởng GDP từ 0,2 % vào giai đoạn 1975 - 1980 đã tăng lên 6,0 % và năm 1988, tăng lên 8,4 % vào năm 2005. 
-Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho tới đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trong cơ cấu GDP, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ. Từng bước tỷ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp giảm, đến năm 2005 đạt chỉ còn 21,0 %. Tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng tăng nhanh nhất, đến năm 2005 đạt xấp xỉ 41 %, vượt cả tỷ trọng của khu vực dịch vụ (38,0 %).
-Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng chuyển biến rõ nét. Một mặt hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, phát triên các vùng chuyên canh quy mô lớn, các trung tâm công nghiệp và dịch vụ lớn. Mặt khác, những vùng sâu, vùng xa, vùng núi và biên giới, hải đảo cũng được ưu tiên phát triển.
-Nước ta đạt được những thành tựu to lớn trong xóa đói giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Câu trả lời:

Về những cơ hội, Thủ tướng nêu năm vấn đề chính:
Một là: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.

Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.

Về những thách thức, Thủ tướng nhấn mạnh bốn vấn đề lớn.
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển". 

Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. 

Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.

Thủ tướng nêu rõ: Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất. 

Thủ tướng cũng bảy tỏ tin tưởng: "Với thành tựu to lớn sau 20 năm Đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia nhập WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta"./.