Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 36
Số lượng câu trả lời 33
Điểm GP 10
Điểm SP 29

Người theo dõi (9)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

- Đáp ứng yêu cầu của cách mạng, từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, chống "Chiến tranh đặc biệt" của Mĩ và chính quyền Sài Gòn.

- Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam ra đời  (20/12/1960), Trung ương Cục miền Nam Việt Nam thành lập (1/1/1961), các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân Giải phóng miền Nam (5/2/1961)

- Trong nhữung năm 1961-1962, quân Giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch, đồng thời tiến công tiêu diệt nhiều đồn bốt lẻ của địch. Năm 1962, quân dân ta đã đẩy lùi nhiều cuộc càn quét lớn của địch vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh và Tây Bắc Sài Gòn.

- Thắng lợi đầu tiên trên mặt trân quân sự đó là chiến thắng Ấp Bắc vào ngày 2/1/1963. Chiến thắng Ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đã đánh bại các biện pháp chiến thuật : "trực tăng vận", "thiết xa vận" của địch, đánh sập lòng tin của quân đội Sài Gòn vào trang bị vũ khí hiện đại của Mĩ. Chiến thắng này cũng chứng minh quân dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại "Chiến tranh đặc biệt" của Mĩ và chính quyền Sài Gòn, sau trận Ấp Bắc, phong trào "thi đua ấp Bắc giết giặc lập công" dấy lên khắp miền Nam.

- Sau chiến thắng Ấp Bắc, quân Giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn. Cuối năm 1964, quân dân Đông Nam Bọ mở chiến dịch tấn công Đông - Xuân 1964-1965 với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giã.

- Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, quân Giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa). Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn, hoặc thiệt hại nặng. Quân đội Sài Gòn, lực lượng nòng cốt của " Chiến tranh đặc biệt" không còn đủ sức đương đầu với cuộc tiến công lớn của quân Giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã

Câu trả lời:

* Các xu thế phát triển :

- Một là : Sau chiến tranh lạnh, hầu như tất cả các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm, bởi ngày nay kinh tế đã trở thành nội dung căn bản trong quan hệ quốc tế. Xây dựng sức mạnh tổng hợp của quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc. Sức mạnh của mỗi quốc gia là dựa trên nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính vững chắc, một nền công nghệ có trình độ cao cùng với một lực lượng quốc phòng hùng mạnh.

- Hai là : sau " Chiến tranh lạnh", quan hệ giữa các nước lớn theo chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp nhằm tạo nên một môi trường quốc tế thuận lợi giúp họ vươn lên mạnh mẽ, xác lập một vị trí ưu thế trong trật tự thế giới mới. Mối quan hệ giữa các nước lớn ngày nay mang tính hai mặt nổi bật là : mâu thuẫn và hòa hoãn, cạnh tranh và hợp tác, tiếp xúc và kiềm chế.

- Ba là : Tuy hòa bình và ổn định là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới sau "chiến tranh lạnh", những ở nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột. Nguy cơ này càng trở nên trầm trọng khi ở nhiều nơi lại diễn ra nhữung chủ nghĩa li khai, chủ nghĩa khủng bố....Những mâu thuận sắc tốc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ thường có những căn nguyên lịch sử nên việc giải quyết không dễ dàng và thường kéo dài.

- Bốn là : Những năm 90 của thế kỹ XX sau Chiến tranh lạnh, thế giới đã và đang chứng kiến xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

* Thời cơ và thách thức :

- Thời cơ :

   + Các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và lấy kinh tế làm trọng điểm, cùng sự tăng cường hợp tác và tham gia các liên minh kinh tế khu vực và quốc tế.

  + Các quốc gia có thể khai thác các nguồn vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ và kinh nghiệm  quản lí từ bên ngoài, nhất là các tiến bộ khoa học - kĩ thuật để đưa đất nước phát triển.

  + Các dân tộc ngày càng có tiếng nói chung, đoàn kết cùng nhau đấu tranh vì một thế giới hòa bình ổn định, hợp tác phát triển vì công bằng hạnh phúc cho mỗi con người, cho mỗi dân tộc trên hành tinh.

- Thách thức :

  + Đối với các nước đang phát triển : Cần nhận thức đầy đủ sự cần thiết tất yếu và tìm kiếm con đường, cách thức hợp lí nhất trong quá trình hội nhập quốc tế - phát huy thế mạnh; hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro, bất lợi và cả sai lầm; có những bước đi thích hợp, kịp thời. Phần lớn các nước đang phát triển đề từ điểm xuất phát thấp về kinh tế, trình độ dân trí thấp, nguồn nhân lực đào tạo có chất lượng hạn chế. Sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế còn nhiều bất bình đẳng, gây nhiều thiệt hại đối với các nước đang phát triển. Vấn đề giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp hài hòa giữc truyền thông và hiện đại cần được lưu ý.

+ Đối với các nước phát triển : Cần làm cho các vấn đề xã hội được ổn định, nhất là sự phân hóa giàu nghèo và những mâu thuẫn nội tại của đất nước. Cần điều chỉnh các chính sách đối ngoại cho phù hợp với xu thế hòa bình đang là nhu cầu đặt ra cho nhân loại.

Câu trả lời:

- Cuộc "Chiến tranh lạnh"  do Mĩ phát động từ năm 1974 và đến tháng 12/1989 thì kết thúc. Trong thời gian này, Nhật bản thực hiện chính sách đối ngoại của mình như sau :

- Từ năm 1945 đến năm 1952 : Trong chính sách đối ngoại , Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ, Nhật kí kết Hiệp ước hòa bình Xan Pharanxico (9/1951) và kết thúc chế độ chiếm đóng của Đồng Minh vào năm 1952. Ngày 8/9/1951, Hiệp ước An ninh Nhật - Mĩ được kí kết, đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước.

- Từ năm 1952 đến năm 1973 : Nhật vẫn liên minh chặt chẽ với Mĩ nhưng mở rộng quan hệ hơn. Năm 1956, Nhật Bản đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và cũng trong năm này, Nhật trở thành thành viên của Liên hiệp quốc. Chính phủ Nhật đã đứng về phía Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam. Phong trào đấu tranh theo mùa (mùa xuân và mùa thu) kể từ 1954 trở đi đòi tăng lương, cải thiện đời sống luôn diễn ra mạnh mẽ.

- Từ năm 1973 đến 1989 : Với sức mạnh kinh tế - tài chính ngày càng lớn, từ nửa năm sau những năm 70 của thế kỷ XX, Nhật Bản cố gắng đưa ra chính sách đối ngoại riêng của mình.

- Sự ra đời của Học thuyết Phucuda tháng 8/1977 : được coi như là mốc đánh dấu sự trở về Châu Á của Nhật Bản, trong khi vẫn coi trọng quan hệ Nhật - Mĩ, Nhật - Tây Âu. Học thuyết Kaiphu do Thủ tướng Khaiphu đưa ra năm 1991 là sự phát triển tiếp tục học thuyết Phucuda trong điều kiện lịch sử mới. Nội dung chính của học thuyết Phucuda là củng cố mối quan hệ với các nước Đông Nam Á trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và là bạn hàng bình đẳng trong các nước ASEAN.

- Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 21/9/1973

Câu trả lời:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

 

Hạ đang dần qua đi, một mùa thu mới đang đến gần. Trong khoảnh khắc giao mùa hạ thu này, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà tinh tế. Và ngay cả trong đời sống con người cũng có những chuyển biến tinh vi.

 

Một sớm tinh mơ thức dậy, thấy bầu trời sao mà cao xanh thế. Những đám mây trắng thơ thẩn dạo chơi cùng làn gió thu se se lạnh: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắ” (Thu điếu- Nguyễn Khuyến). Một không khí mát mẻ dễ chịu của mùa thu đang dần thay thế cái oi bức, nóng nực của những hôm hè mới qua. Rồi chiều tà buông xuống, thả tâm hồn mình dạo trên con phố đông đúc người xe, tôi chợt nhận ra rằng những tiếng ve như đã ngơi dần thay vào đó một bản nhạc du dương vang khắp phố phường: “Hà Nội mùa thu! Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu…”. Cái nắng chói chang của buổi chiều hè cũng trốn đâu mất rồi chỉ còn lại những tia nắng thu nhạt nhòa. Làn gió heo mây se lạnh hòa vào hương hoa sữa nồng nàn mang đến cho ta một cảm giác bồi hồi xao xuyến. Đêm đến trời hơi se lạnh, khiến người ta bất giác rùng mình. Những chiếc lá xanh đang ngả dần sắc vàng, thỉnh thoảng gió vô tình thổi khiến lá kia giật mình rơi xuống lòng đường.

 

Trong ao bây giờ, những bông sen trắng, sen hồng mỗi lúc một úa tàn, trái lại những bông hoa cúc trong vườn lại ngày một nở rộ. Trong khoảnh khắc ngày, lòng tôi trỗi lên một cảm giác bồi hồi xao xuyến. Tôi hẵng còn nhớ, hồi tôi còn bé, vì thường xuyên bận công tác, nên bố mẹ tôi cho tôi về quê ở với bà một thời gian. Nhà bà có một vườn hoa trồng toàn hoa cúc. Cứ mỗi đợt thu về, hoa cúc thi nhau nở rộ, phủ kín cả khu vườn. Lúc ấy, mỗi sáng tôi đều thức dậy từ rất sớm, cùng bà ra ngoài vườn tưới nước, chăm sóc cho vườn cúc. Cúc trong vườn lớn nhanh lắm, chẳng mấy chốc khu vườn ngập tràn hoa cúc. Bà thường chọn những bông cúc khô có màu trắng ngà pha thành trà hoa cúc cho tôi uống. đến tận bây giờ tôi vẫn không sao quên được hương thơm dịu nhẹ từ những cốc trà hoa cúc bà pha ngày nào.

 

Không tràn trề sức sống như lúc vào xuân, cũng không sôi động, náo nhiệt như những ngày đầu hạ và chẳng lạnh lung thu mình lại suy tư giống những ngày chớm đông, thu sang mang một vẻ đẹp riêng biêt. Có chút dịu dàng và duyên dáng như một cô gái yêu kiều đang bước vào tuổi trưởng thành. khoảnh khắc thu sang thật tuyệt và trong những giây phút ấy, tôi chợt nhận ra rằng không chỉ riêng thiên nhiên mới có sự biến đổi mà trong thế giới nội tâm con người cũng có những biến chuyển mới. Thu về, mang cho ta chút nhớ nhung xao xuyến. ấy là làn sương hạ chùng chình trước ngõ nhà ai, nửa muốn đi nửa muốn ở: “Sương chùng chình qua ngõ” (Hữu Thỉnh). Ấy là học sinh tiếc nuối tạm biệt chuỗi ngày nghỉ hè được tung tăng khắp bãi cỏ, được thả diều chăn trâu mỗi buổi chiều,… thu về, cũng mang cho ta cảm giác háo hức mong chờ. Mong chờ ngày tựu trường, được gặp lại bạn bè thầy cô của thế hệ học sinh. Và thu về, cũng mang theo những nỗi lo toan trăn trở. ấy là mái tóc cha đang bạc từng ngày, là vầng trán mẹ mỗi lúc một nhiều nếp nhăn vì lo cho con cái bước vào năm học mới.

 

Trong khoảnh khắc giao mùa hạ sang thu, đất trời thiên nhiên như đang “trở mình” một cách duyên dáng. Tâm hồn con người như cũng “lột xác” nhẹ nhàng. Và tôi mong lắm thu ơi, mau đến đây đi thu:

 

Thu đến đây! Chừ, mới nói răng?

Chừ đây, buồn giận biết bao ngăn?

Tìm cho những cánh hoa đang rụng

Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn!...

(Thu - Lưu Trong Lư)

 

Câu trả lời:

Quê tôi ở tỉnh Hà tây, nay thuộc thành phố Hà nội nhưng vẫn là một vùng đậm chất thuần nông với ao cá, vườn cây, ruộng vườn, những cánh đồng lúa bát ngát mênh mông. Đất rộng nên nhà nào cũng trồng nhiều loại cây ăn quả sai trĩu cành, đặc biệt là cây bưởi. Đó cũng chính là đặc sản cuả quê tôi mà trong dân gian thường có câu: cam Canh, bưởi Diễn.

Ở nhà bà tôi, có trồng một cây bưởi. Bà kể lại rằng từ trước khi qua đời, ông tôi đã trồng cây bưởi này, đúng dịp mẹ sinh tôi. Đến bây giờ cây đã cao to bằng ngôi nhà hai tầng. Dầm mưa dãi nắng nhiều năm, thân cây trở nên bạc phếch, đã thế còn mọc những u tròn, sần sùi, to bằng cái nắm tay. Cành cây vươn xa, tán lá rộng tỏa bóng mát cho chúng tôi ngày còn thơ ấu. Lá cây màu xanh sẫm, trông như những nậm rượu nhỏ, đu đưa trong gió. Hoa bưởi nhỏ xinh, trắng muốt tỏa hương thơm dìu dịu, thu hút nhiều loại ong bướm ve vãn. Hương bưởi đã từng đi vào rất nhiều bài thơ hay, nổi tiếng.  Vào tháng giêng, tháng hai Âm lịch, khi mưa xuân phơi phới đầy đường làng, những cánh hoa trăng trắng nhỏ xinh cuộn tròn theo gió, đuổi nhau trên những con đường gạch. Nhớ những ngày còn bé, lũ trẻ chúng tôi thường rủ nhau vào vườn nhặt những cành hoa kết thành vòng đeo đầy cổ, đầy tay. Có vài cậu nhóc nghịch ngợm, leo trèo làm cho những cánh hoa đang cựa mình tung ra, rơi lả tả xuống sân. Lũ con gái nhìn lên, xuýt xoa, tiếc nuối. Lại những buổi trưa hè, tôi hay trốn mẹ ra ngồi gốc bưởi vừa thưởng thức mùi hương ngọt ngào, quyến rũ mà đến tận bây giờ vẫn không thể quên được. Mùng một đầu tháng hay ngày rằm, mẹ tôi thường ra vườn từ sớm, hái những cành hoa bưởi còn đọng sương mai trân trọng đặt lên bàn thờ thắp hương. Nhìn bóng mẹ lặng lẽ đứng bên bàn thờ, tôi càng thêm nhớ tới ông hơn.

Ngày còn bé, hai chị em tôi rất điệu, chỉ thích để tóc dài rồi tết thành hai bím. Qua cả mùa đông hanh hao, ẩm ướt mà tóc cuả chúng tôi vẫn mượt mà, óng ả. Bởi mẹ tôi thường hái lá bưởi cùng một số các lá khác trong vườn đun nước gội đầu cho chúng tôi, mẹ bảo như thế tóc mới đẹp. Mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng cùng cái mượt mà, tinh khiết của dầu bưởi đan vào từng sợi tóc. Cuối tháng ba, cây bưởi bắt đầu ra hoa kết trái. Ban đầu, nó chỉ bé bằng quả bóng bàn nhỏ. Thế rồi quả bưởi to dần theo năm tháng. Nó to bằng quả cam rồi đến bằng miệng bát ô tô. Vào tháng tám, những trái bưởi to, tròn trịa, mọng nước sai lúc lỉu trên cây. Quả bưởi chuyển từ màu xanh sẫm sang rám vàng trông rất bắt mắt. Mỗi lần về quê, bà thường ra vườn chọn những quả bưởi to tròn và ngọt nhất bổ ra cho cả nhà cùng nếm thử. Đưa múi bưởi chạm vào đầu lưỡi, mùi vị ngọt lịm, thơm thơm như tan trong miệng mà không ở nơi nào có được.

Giờ tôi đã khôn lớn, đã bước chân vào trường cấp hai, được đi đến nhiều nơi nhưng kí ức quê hương vời mùi hương hoa bưởi vẫn luôn đánh thức tôi nhớ về tuổi thơ yêu dấu.
Quê tôi giờ đã đổi mới, không còn những vườn bưởi trắng hoa mỗi độ xuân về nữa, thay vào đó mọc lên nhiều nhà cao tầng, nhà máy san sát. Nhà nào cũng chỉ trồng vài gốc bưởi để làm cảnh. Nhưng cây bưởi vẫn mãi mãi là người bạn tuổi thơ của tôi, là một phần trong những kỉ niệm không bao giờ phôi pha...