Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 36
Số lượng câu trả lời 33
Điểm GP 10
Điểm SP 29

Người theo dõi (9)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

- Tình hình  :

Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kí kết, chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương của Pháp. Ngày 10 – 10- 1954, quân ta tiếp quản Hà Nội; ngày 1 - 1 - 1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân Thủ đô. 

       Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà (Hải Phòng). Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.

Giữa tháng 5-1956, Pháp rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng chưa thực hiện Hiệp thương tổng tuyển cử tự do, thống nhất hai miền Nam - Bắc Việt Nam.

Ngay sau Hiệp định Giơnevơ, Mĩ liền thay thế thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.

   - Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ :

Nhiệm vụ của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ của miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.

Nhiệm vụ chung của cách mạng hai miền Nam - Bắc là đánh Mĩ và tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

 

 

 

Câu trả lời:

- Nguyên nhân thắng lợi :

          Cuộc kháng chiến chống Pháp có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo; toàn dân đoàn kết một lòng.

          Nhờ có, mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lðợng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn.

          Đó là thắng lợi của tình đoàn kết giữa nhân dân 3 nước Đông Dương trong liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân khác, cũng như sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

- Ý nghĩa lịch sử :

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta thắng lợi đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta.

Miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là một đòn mạnh giáng vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc , góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.

Thắng lợi này cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trước hết là các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh.

 

Câu trả lời:

Từ cuối năm 1953, cuộc kháng chiến của ta đi vào giai đoạn cuối.,giành được những thắng lợi lớn trên mặt trận quân sự, chính trị..., Đảng ta chủ trương mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao.

          Đối với Pháp, đến lúc này do bị thất bại nặng trên chiến trường chúng phải thay đổi thái độ.

           Tháng 1-1954 hội nghị ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp thoả thuận triệu tập hội nghị quốc tế Giớnevơ để giải quyết vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.

          - Nội dung Hiệp định Giơnevơ :Ngày 8-5-1954, Hội nghị bắt đầu thảo luận, đến ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được kí kết. Nội dung cơ bản như sau:

          Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

 Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn Đông Dương, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, ở Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời.

        Cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự.

        Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7 – 1956.                                Trách nhiệm thi hành hiệp định thuộc về những người kí hiệp định và những người kế tục sự nghiệp của họ.

- Ý nghĩa của Hiệp định Giơnevơ :

             Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương, được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.

             Đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc.

             Với Hiệp định Giơnevơ, Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương, rút hết quân đội về nước ; đế quốc Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hoá chiến tranh xâm lược Đông Dương. 

Câu trả lời:

  - Về chính trị :

1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thống nhất Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt).

Ngày 11-3-1951, Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào được thành lập, đã tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đ D

Phong trào thi đua yêu nước lan rộng trong các ngành, các giới. Năm 1952, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất đã bầu chọn 7 anh hùng và hàng chục chiến sĩ thi đua toàn quốc.

  - Về kinh tế :

Năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra đã sản xuất được 2,7 triệu tấn thóc và hơn 65vạn  tấn hoa màu.

Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp cơ bản đáp ứng nhu cầu về công cụ sản xuất, những mặt hàng thiết yếu của đời sống. Năm 1953, ta sản xuất được 3500 tấn vũ khí đạn dược, cung cấp tạm đủ cho bộ đội về thuốc men, quân trang quân dụng.

 Chính phủ đã đề ra các chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khoá, xây dựng nền tài chính ngân hàng, thương nghiệp.

 -Về bồi dưỡng sức dân, năm 1953, Đảng và Chính phủ đã quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, ta thực hiện 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở 53 xã thuộc vùng tự do.

-Về văn hoá, giáo dục, y tế :

Về giáo dục, ta tiếp tục cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950) thực hiện theo ba phương châm : phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất, gắn nhà trường với đời sống xã hội.

-Về văn hoá, văn nghệ sĩ hăng hái đi sâu vào đời sống chiến đấu và sản xuất, thực hiện lời dạy của Bác Hồ : "Kháng chiến hoá văn hoá và văn hoá hoá kháng chiến".

-Về y tế, Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng nhiều nơi.

Câu trả lời:

            Đại hội họp từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang, tham dự có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên.

- Nội dung Đại hội :

            Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng :

               Thông qua Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh đã qua.

            Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo "Bàn về cách mạng Việt Nam" nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giaiđoạn tới.

             Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng Mác -  Lênin riêng. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định thành lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai.

             Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới, quyết định xuất bản báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng.

             Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.

- Ý nghĩa Đại hội :

Đại hội lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, là "Đại hội kháng chiến thắng lợi".

   

Câu trả lời:

- Bước đầu xây dựng và củng cố chế độ mới về mọi mặt, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

+  Xây dựng chính quyền cách mạng :

Ngày 6-1-1946, Tổng tuyển cử, gần 90% cử tri đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu Quốc hội,

        Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp chính thức của nước Việt Nam mới, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và lập ra Ban dự thảo Hiếp pháp.

       Ở địa phương Bắc Bộ và Trung Bộ tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.

        Lực lượng vũ trang được chú trọng xây dựng. Ngày 22-5-1946, Quân đội quốc gia Việt Nam ra đời. Lực lượng dân quân tự vệ củng cố, phát triển.

+ Giải quyết nạn đói :

Biện pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương... Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân "Nhường cơm sẻ áo". Nhân dân  lập "Hũ gạo cứu đói", tổ chức "Ngày đồng tâm"...

Biện pháp lâu dài, đẩy mạnh "Tăng gia sản xuất". Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi "Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa!".Đồng thời ta thực hiện giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công.

ð Nhờ những biện pháp trên, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi.

+  Giải quyết nạn dốt :

Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ -chuyên  trách chống “giặc dốt”, kêu gọi cả nước tham gia phong trào xoá nạn mù chữ.

Đến ngày 8 - 9 - 1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76 000 lớp học, xoá mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Đồng thời, trường học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng.

+  Giải quyết những khó khăn về  tài chính :

Trước mắt, Chính phủ kêu gọi nhân dân tự nguyện đóng góp, xây dựng "Quỹ độc lập" phát động "Tuần lễ vàng"... Chỉ trong thời gian ngắn nhân dân đã tự nguyện góp được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào Quỹ độc lập, 40 triệu đồng cho Quỹ đảm phụ quốc phòng.

       Ngày 23-11-1946, Quốc hội quyết định lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.

- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

          + Từ ngày 2-9-1945 đến trước ngày 6-3-1946: Hoà với quân Trung Hoa Dân quốc kiến quyết chống Pháp ở Nam Bộ

    Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ

          Với dã tâm của thực dân Pháp muốn xâm lược nước ta lần nữa Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ.

       Quân và dân Sài Gòn Chợ Lớn cùng với quân và dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc

       Trung ương Đảng, Chính phủ đã kịp thời đề ra những chủ trương để lãnh đạo cuộc kháng chiến miền Nam. Cả nước chi viện về mọi mặt cho miền Nam. Các đơn vị "Nam tiến", nhân dân Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ quyên góp tiền thuốc men…ủng hộ nhan Nam Bộ.

Ý nghĩa: đã ngăn chặn từng bước tiến công của địch, hạn chế âm mưu "đánh nhanh, thắng nhanh" của chúng, góp phần bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho cả nước có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc về sau.

 Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc:

Chủ trương của ta là hoà hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc vì tránh cùng một lúc với nhiều kẻ thù.

Nhân nhượng một số yêu sách về kinh tế, chính trị của quân Trung hoa Dân quốc như : nhận  tiêu tiền "Quan kim", "Quốc tệ", cung cấp một phần lương thực cho chúng, đồng ý nhường cho tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử  và một số ghế trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.

Đối với bọn phản động tay sai ra mặt chống phá cách mạng thì kiên quyết trừng trị theo pháp luật.

Ý nghĩa : chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của bọn chúng, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.

         Từ ngày 6-3-1946 đến ngày 19-12-1946: Hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta

 - Hiệp ước Hoa Pháp :

Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa-Pháp được kí kết giữa Chính phủ Trung Hoa Dân quốc và Pháp. Theo đó Trung Hoa Dân quốc được Pháp nhượng một số quyền lợi như  trả lại các tô giới…Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.

Như vậy, Hiệp ước Hoa -Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường:

 Hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc.

 Hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù.

      - Sách lược của Đảng và Chính phủ :

         Trước tình hình trên, Ban thương vụ Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì, đã họn giải pháp"Hoà để tiến".

          Chiều 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với G. Xanhtơni đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ.

      -  Nội dung Hiệp định Sơ bộ :

Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng.

Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho 15000 quân Pháp được ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc , số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.

 Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam.

 Ý nghĩa :

            Ta đã tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc.

              Đẩy nhanh được 20 vạn Trung Hoa dân quốc cung tay sai về nước.

               Có thời gian hoà bình để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.

          Về mặt pháp lí, Chính phủ Pháp đã phải thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, không còn là thuộc địa của Pháp.

          -  Tạm ước 14-9-1946:

Để kéo dài thêm thời gian hoà hoãn và tỏ rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc đó đang ở thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách, đã kí với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9-1946, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hoá ở Việt Nam.

Câu trả lời:

        Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách.

     Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta.

Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo theo các tổ chức phản động (Việt Quốc) và (Việt Cách) nhằm cướp chính quyền của ta. 

          Từ  vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn một vạn quân đội Anh vào chiếm đóng, ra sức mở đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai.

          Lúc này ở nước ta còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.

          Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới ra đời, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu.

      Kinh tế nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng, kho bạc chỉ còn hơn 1,2  triệu đồng. Quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho tài chính nước ta càng thêm rối loạn.

    văn hoá chế độ thực dân phong kiến để lại hậu quả hết sức nặng nềi,  hơn 90% dân ta không biết chữ.

          Những khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng Tám là rất lớn, đã đặt nước ta vào tình thế hiểm nghèo "Ngàn cân treo sợi tóc".