Tập đọc: Người công dân số Một

Câu hỏi trắc nghiệm

Ghép giọng đọc phù hợp với mỗi nhân vật:

  • Anh Thành||chậm rãi, trầm tĩnh, sâu lắng, thể hiện sự trăn trở suy nghĩ về vận nước.
  • Anh Lê||hồ hởi, nhiệt tình, thể hiện tính cách của một người có tính thần yêu nước, nhiệt tình với bạn bè, nhưng suy nghĩ còn đơn giản, hạn hẹp.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG

 

Khi anh Lê báo tin đã tìm được việc cho anh Thành, anh Thành đã đáp lại như thế nào?

  1. Có lẽ thôi, anh ạ.
  2. Sao lại thôi?
  3. Tôi sẽ đến nhận việc luôn vào sáng mai.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG

Khi anh Thành hỏi anh Lê là người nước nào, anh Lê đã trả lời thế nào?

  1. Anh là người nước nào thì tôi là người nước ấy.
  2. Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
  3. Tôi là người Pháp.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG

 

Nếu như nhập quốc tịch Pháp thì sẽ có những lợi ích gì?

  1. Có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây.
  2. Được đi sang Pháp.
  3. Có ngoại hình giống người Pháp.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG

 

Tại sao anh Thành không nghĩ đến kiếm việc làm nữa?

  1. Anh Thành luôn lo nghĩ việc cứu nước, cứu dân.
  2. Vì gia đình anh Thành rất giàu có.
  3. Vì anh Thành sắp nhập quốc tịch Pháp.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG

 

Vì sao anh Thành lại chia sẻ với anh Lê những lo nghĩ về việc cứu nước?

  1. Vì họ cùng là công dân nước Việt Nam.
  2. Vì anh Lê rất giàu có.
  3. Vì anh Lê có tên tây.

Bài đọc:

Người công dân số Một

(trích)

Nhân vật:

Anh Thành

Anh Lê

Anh Mai

Cảnh trí: Một ngôi nhà ở Xóm Chiếu, Sài Gòn. Dưới ngọn đèn dầu lù mù, anh Thành đang ngồi ghi chép. Anh Lê vào.
Lê:- Anh Thành! Mọi thứ tôi thu xếp xong rồi. Sáng mai anh có thể đến nhận việc đấy.
Thành:- Có lẽ thôi, anh ạ.
Lê:- Sao lại thôi? Anh chỉ cần cơm nuôi và mỗi tháng một đồng. Tôi đã đòi thêm cho anh mỗi năm hai bộ quần áo và mỗi tháng thêm một hào... (Nói nhỏ) Vì tôi nói với họ: anh biết chữ Tàu, lại có thể viết phắc - tuya bằng tiếng Tây.
Thành:- Nếu chỉ cần miếng cơm manh áo thì tôi ở Phan Thiết cũng đủ sống...
Lê:- Vậy anh vào Sài Gòn này làm gì?
Thành:- Anh Lê này! Anh học trường Sa-xơ-lu Lô-ba... thì.... ờ... anh là người nước nào?
Lê:- Anh hỏi lạ thật. Anh người nước nào thì tôi là người nước ấy.
Thành:- Đúng! Chúng ta là đồng bào. Cùng máu đỏ da vàng với nhau. Nhưng... anh có khi nào nghĩ đến đồng bào không?
Lê:- Sao lại không? Hôm qua ông đốc học nhắc lại nghị định của giám quốc Phú Lãng Sa tháng 5 năm 1881 về việc người bản xứ muốn vào làng Tây....
Thành:- À... Vào làng Tây để có tên Tây, đi lại, ăn ở, làm việc, lương bổng như Tây... Anh đã làm đơn chưa?
Lê: - Không bao giờ! Không bao giờ tôi quên dòng máu chảy trong cánh tay này là của họ Lê, anh hiểu không? Nhưng tôi chưa hiểu vì sao anh thay đổi ý kiến, không định xin việc làm ở Sài Gòn này nữa.
Thành:- Anh Lê ạ, vì đèn dầu ta không sáng bằng đèn hoa kì. Đèn hoa kì lại không sáng bằng đèn tọa đăng. Hôm qua, tôi đi xem chớp bóng lại thấy ngọn đèn điện mới thật là sáng nhất. Sáng như ban ngày mà không có mùi, không có khói.
Lê:- Anh kể chuyện đó để làm gì?
Thành:- Vì anh với tôi... chúng ta là công dân nước Việt...
 

(Còn nữa)

Theo HÀ VĂN CẦU - VŨ ĐÌNH PHÒNG