Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Hoàng Đức Lương: không rõ năm sinh, năm mất.
- Quê quán: ở huyện Văn Giang (Hưng Yên), trú quán ở Gia Lâm (Hà Nội).
- Đỗ tiến sĩ năm 1478.
a. Xuất xứ
- Là tập thơ gồm 6 quyển do Hoàng Đức Lương sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn những tác phẩm từ thời Trần đến thời Lê thế kỉ XV, cuối tập là của Hoàng Đức Lương.
- Tập thơ không rõ biên soạn năm nào nhưng ông viết bài tựa vào năm 1497.
b. Bố cục
- Phần 1: (Từ đầu đến “rách nát tan tành”): Những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
- Phần 2: (Còn lại): Tâm sự và công việc sưu tầm thơ văn của tác giả.
a. Nguyên nhân chủ quan
- Chỉ có thi nhân nhà thơ - "người có trình độ học vấn mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca".
- Nhưng vẻ hấp dẫn, vẻ đẹp của thơ văn lại còn như là “sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được”, là "vẻ đẹp, vẻ hấp dẫn đặc biệt, trừu tượng, khó nắm bắt."
- "Cần phải là người có trình độ, học vấn mới nắm bắt được nhưng số người đó trong xã hội ta không nhiều" muốn nói không phải ai trong xã hội cũng yêu quý, cũng quan tâm sưu tầm, lưu giữ.
- Người có học, có hiểu biết (bậc danh nho, người làm quan, các sĩ tử) hoặc vì bận việc hoặc không quan tâm đến viêc sưu tầm văn thơ.
- Người yêu thích thơ văn lại không đủ trình độ, năng lực và tính kiên trì.
- Nhà nước (triều đình, nhà vua) không khuyến khích việc in ấn (khắc ván) thơ văn mà chỉ in kinh Phật.
b. Nguyên nhân khách quan
- Sức phá huỷ của thời gian đối với sách vở.
- Chiến tranh, hỏa hoạn.
c. Nghệ thuật lập luận
- Phương pháp quy nạp.
- Dùng hình ảnh so sánh trong đoạn thơ 1 và 5.
- Câu hỏi tu từ: “Huống chi...tan tành?”
- Tác giả nêu nguyên nhân khiến thơ văn thất truyền trước nhằm:
+ Nhấn mạnh vào mục đích của việc sưu tầm, biên soạn cuốn sách của mình là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tế chứ không phải chỉ do sở thích cá nhân.
+ Đó là một công việc khó khăn nhưng đáng quý, cần thiết, nằm trong trào lưu chung của thời đại phục hưng dân tộc thế kỉ XV.
- Tâm sự của tác giả trước thực trạng thơ văn của ông cha bị thất truyền, hủy hoại:
+ Xót xa, thương tiếc trước di sản quý báu bị tản mát, hủy hoại, đắm chìm trong quên lãng khi đặt nền văn hóa dân tộc mình sánh với văn hóa Trung Quốc.
+ Khó khăn trong việc khảo cứu thơ văn Lý - Trần làm tác phải thường thở than, có ý trách lỗi các trí thức đương thời.
- Công việc sưu tầm, biên soạn của tác giả:
+ Sưu tầm rất công phu, phải tìm tòi, thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều, chọn lấy bài hay.
+ Biên soạn: Phải chia xếp theo từng loại; đặt tên sách. Phần cuối sách có phụ thêm thơ văn của mình.
1. Nghệ thuật
- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ.
- Lời lẽ thiết tha.
2. Nội dung
Bài tựa thể hiện niềm tự hào, sự trân trọng và ý thức bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.