Tây Tiến

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
3 coin
TÂY TIẾN

-Quang Dũng-

P/s: Sau khi nghe cô giảng và đọc thêm sách, tham khảo tài liệu thì mình soạn ra 1 file như này cho dễ học nè ^^

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả:

 Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn những cũng rất hồn hậu, tinh tế.

2. Tác phẩm:

* Hoàn cảnh sáng tác

- Đoàn quân Tây Tiến:

+ Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ của Việt Nam.

+ Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm trở của biên giới Việt – Lào gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nứa.

+ Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.

- Chiến sỹ Tây Tiến:

+ Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa lãng mạn.

+ Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”

- Quang Dũng (vị trí tác giả trong hoàn cảnh):

+ Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối 1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”.

+ Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành “Tây Tiến”

Hoàn cảnh sáng tác cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất miền Tây đầy kỷ niệm, nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ, đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hòa hoa, hào hùng của chiến sỹ Tây Tiến, hiểu được bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn – những yếu tố làm nên chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ.

* Bố cục

+ Đoạn 1: Nỗi nhớ về chặng đường hành quân, qua đó khắc họa bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng và trữ tình

+ Đoạn 2: Kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước Tây Bắc

+ Đoạn 3: Bức chân dung người lính Tây Tiến

+ Khổ cuối: Lời thề, hẹn ước không quên Tây Tiến.

=> Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

II. PHÂN TÍCH:

* Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, dòng hồi ức của tác giả về thiên nhiên, núi rừng miền Tây Bắc, về chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ dữ dội lại vừa thơ mộng, lãng mạn:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

- Hai câu thơ đầu là dòng cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ. Nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình về sông Mã, về Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc….

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

+ Hình ảnh sông Mã là hình ảnh xuất hiện đầu tiên trong tâm hồn nhà thơ khi nhớ về TT.

Bởi Sông Mã là dòng sông quen thuộc với những bước chân hành quân của người lính Tây Tiến. Nó là địa bàn hoạt động, là địa bàn chiến đấu, cũng là một chứng nhân đã chứng kiến biết bao những buồn vui, những gian khổ của người lính. Đối với QD - người lính ra đi từ Hà Nội, con người vốn hào hoa, lãng mạn, dòng sông Mã lại càng trở thành người bạn trong những năm tháng không thể phai mờ.

+ Từ hình ảnh dòng sông, nhà thơ bộc lộ một nỗi nhớ đậm sâu, da diết, mãnh liệt về Tây Tiến, một nỗi nhớ dường như không thể kìm nén được đã phải bật thốt lên thành tiếng gọi: “Tây Tiến ơi!”.

Tiếng gọi thiết tha ấy là nỗi nhớ cháy bỏng trong tâm hồn, là khát khao, tha thiết quay về với quá khứ, với đồng đội thân thiết.

+ Nhớ về Tây Tiến, như một lẽ tất yếu, là nhớ rừng núi-

không gian, địa bàn hoạt động quen thuộc, những chặng đường hành quân mà những người lính Tây tiến đã trải qua với biết bao niềm vui, nỗi buồn.

+ Để thể hiện nỗi nhớ đằm sâu trong tâm hồn của thi nhân, trong câu thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”, tác giả đã sử dụng điệp từ “nhớ”

nhằm khẳng định nỗi nhớ ăm ắp trào dâng. Nỗi nhớ ấy từ trong lòng người lan tỏa, trải dài ra cả một không gian rộng lớn. Bên cạnh đó, nhà thơ còn có một sự sáng tạo, sự kết hợp từ vô cùng tinh tế: “nhớ chơi vơi”- “chơi vơi” là một từ láy tượng hình thường dùng để miêu tả những sự vật hữu hình, đang lơ lửng giữa không trung. Trong khi đó, nhớ là trạng thái vô hình trong lòng người, không thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận; “nhớ chơi vơi”, là một nỗi nhớ vừa vô hình vừa hữu hình, có lúc nhòe mờ không thể nắm bắt được, có lúc lại hiện lên thành hình, thành khối. Một nỗi nhớ có dáng có hình, cứ bồng bềnh, chênh chao, vừa thực, vừa hư. Ca dao cũng từng có câu:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi

Nhớ chiếu bạn trải, nhớ chăn bạn nằm.”

Hơn thế, từ “chơi vơi” còn rất phù hợp để diễn tả nỗi nhớ của một người đang ngồi ở đồng bằng hướng về một vùng rừng núi hùng vĩ, với đèo cao, vực thẳm ẩn hiện giữa sương mờ. Từ đồng bằng hướng về vùng đồi núi xa xôi, nỗi nhớ lại càng bồng bềnh, hư ảo.

- Sau hai câu thơ mở đầu, những kỉ niệm về Tây Tiến, về rừng núi cứ lần lượt hiện lên trong kí ức của nhà thơ.

“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

+ Bằng một vài chi tiết giàu sức gợi, tác giả đã vẽ nên bức tranh miền Tây Bắc có những đặc điểm riêng biệt với sức hút lạ kì:

~ Ở Sài Khao là cảnh sương núi dày đặc như bao phủ, vây bủa, nhấn chìm cả đoàn binh mỏi mệt. Động từ “lấp” là động từ mạnh, nó tô đậm sự dữ dội đến khắc nghiệt của khí hậu miền Tây.

~ Còn ở Mường Lát là cảnh “hoa về trong đêm hơi” – hình ảnh thơ gợi nhiều liên tưởng, đó là mùi hương thơm nhè nhẹ của những bông hoa rừng, hay là những bông hoa rừng ẩn hiện chập chờn trong làn sương mờ ảo…

=> Hành quân trong đêm, trong làn sương rừng dày đặc, nhưng đó cũng là một cơ hội để các chiến sĩ thưởng thức hương hoa thoang thoảng, được ngắm nhìn nhưng bông hoa thoắt ẩn thoắt hiện. Vẻ đẹp thơ mộng đó có thể xua tan biết bao mệt mỏi, bởi họ là những người lính có tâm hồn lãng mạn, bay bổng nay lại bắt gặp được cảnh đẹp như mơ, vẻ đẹp đậm màu sắc phương xa xứ lạ mà những người con của Hà Nội chưa một lần được thưởng thức.

- Cảnh sắc núi rừng miền Tây còn được hiện lên hết sức chân thực, nhưng cũng rất diệu kì, tuyệt đẹp trong khổ thơ tiếp, khổ thơ cũng thể hiện nét bút rất đỗi tài hoa của Quang Dũng, nó chứng tỏ thơ ông vừa giàu chất nhạc, chất thơ, vừa giàu chất họa:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

+ Ba câu thơ đầu là những nét bút rẳn rỏi, cứng cỏi, mạnh mẽ, khắc họa bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây vô cùng hùng vĩ với cảnh đèo dốc cheo leo.

~ Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”

làm nổi bật lên một con đường hành quân quanh co, gập ghềnh, chênh vênh, thăm thẳm tới mức lúc đi lên thì như đi lên tận trời xanh, chạm được cả vào mây trời; lúc đi xuống thì như xuống tận cùng của vực sâu.

~ Tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật đối: “ngàn thước lên cao” với “ngàn thước xuống” hay “dốc lên” với “dốc thăm thẳm”,

khiến câu thơ như bị bẻ đôi ra, bức tranh thiên nhiên hiện lên với những sườn dốc, sườn núi dựng đứng.

=> Quang Dũng đã tái hiện được những chặng đường hành quân vô cùng vất vả của người lính. Nó chứa đựng biết bao sự nguy hiểm, có khi chỉ sơ sẩy một chút thôi là có thể mất mạng. Người đọc cũng cảm nhận được sự vất vả đến mức chỉ cần đọc câu thơ lên cũng như nghe thấy hơi thở nặng nhọc của họ. Trong những câu thơ này Quang Dũng đã sử dụng chủ yếu thanh trắc, khi đọc lên thấy khỏe khoắn, nhưng cũng thấy được sự khó khăn, mệt nhọc của những người lính trên đường hành quân.

Ngắm nhìn bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội này của miền TB, ta lại nhớ về những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm):

Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao

Hay những hình ảnh rùng rợn hoang dã trong thơ Khương Hữu Dụng:

Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh

Đây ầm ầm thác đổ Không Tên

Có suối chân hùm vừa để dấu

Có lùm cây vút tuyệt đường chim.

~ Nhưng bằng ý chí, bản lĩnh, bằng tinh thần lạc quan của mình,

những người lính Tây Tiến đã vượt qua những chặng đường hành quân vô cùng vất vả ấy. “Đoàn quân” có thể “mỏi” về thể xác nhưng tinh thần của họ dường như không hề “mỏi”. Trước khó khăn, gian khổ, thái độ của người lính vẫn vui tươi, lạc quan, yêu đời, tinh thần tràn đầy khí phách, hình ảnh thơ: “súng ngửi trời” – từ “ngửi” đặt trong nghệ thuật nhân hóa tạo điểm nhấn cho câu thơ, nó cho thấy điểm đứng của người lính là ở trên đỉnh đèo, đỉnh dốc và mũi súng đã có thể chạm vào mây xanh. Đồng thời, động từ “ngửi” thể hiện nét hóm hỉnh, tươi vui, sự ngang tàng, ngạo nghễ của người lính. Câu thơ cũng làm hiện lên hình ảnh những người lính sừng sững, hiên ngang, uy nghi lẫm liệt giữa núi rừng, họ đã chinh phục được những khó khăn, những đỉnh cao của đất trời.

Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Nó làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố Hữu:

Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo

Hình ảnh này cũng gợi nhắc chúng ta nhớ đến câu thơ của Không Lộ Thiền Sư:

“Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng

Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.”

Hai câu thơ làm hiện lên hình ảnh của người xưa một mình đối diện với thiên nhiên, trước vũ trụ bao la rộng lớn mà con người vẫn khát khao ghi lại dấu ấn riêng cho mình. Những người lính Tây Tiến cũng vậy, họ đã khẳng định được tầm vóc lớn lao, khí thế hiên ngang ngạo ngễ của mình trước thiên nhiên trời đất, mũi súng của họ đã “ngửi” được trời xanh!

+ Sau những câu thơ miêu tả con đường đèo dốc cheo leo, gập ghềnh, câu thơ thứ tư Quang Dũng đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp thơ mộng, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp gợi tả sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Khi đọc lên, ta thấy nhẹ bẫng, nó giúp ta hiểu hơn về tâm hồn, niềm vui phơi phới của người lính. Dường như cảnh vật trước mặt chính là một phần thưởng cho họ. Khi vượt qua những con đường đèo dốc cheo leo, người lính Tây Tiến lại có thêm những cơ hội để ngắm nhìn thiên nhiên miền Tây Bắc huyền ảo, mơ hồ: xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng là những nếp nhà sàn, những bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện- đây là một nét đẹp đặc trưng của miền Tây Bắc, miền đất xứ lạ phương xa đối với những người lính Tấy Tiến. Nơi ấy, những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn.

- Một trong những đặc điểm nổi bật của hồn thơ Quang Dũng là chất bi tráng. Ông không hề tránh né những đau thương, mất mát mà sẵn sàng nói đến những hiện thực tàn khốc của chiến tranh (chiến tranh nào phải trò đùa!!!). Những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian nan đã có phút giây gục ngã – chỉ có điều qua cách nói của nhà thơ ta thấy trong bao đau thương, mất mát ấy người lính hiện lên vẫn hào hùng, bi tráng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

+ Hai chữ “dãi dầu” đã thể hiện sự khó khăn, vất vả,

những người lính đã phải chịu dầm sương dãi nắng”, “gió bụi pha xương máu/Đói rét bao lần xé thịt da”,  trên những cung đường đèo dốc cheo leo, hành quân bất kể ngày đêm. Những khó khăn ấy càng ngày càng chất chồng khi những người lính Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường, là tầng lớp trí thức của Hà Nội chưa quen với sương gió.

+ Do vậy, họ đã có những hy sinh, những mất mát trên chính những chặng đường hành quân ấy. Những cụm từ “không bước nữa”, “gục lên súng mũ”, “bỏ quên đời” , ... có nhiều cách lý giải.

~ Có người cho rằng cụm từ này là những từ ngữ dùng để miêu tả, diễn tả những phút giây vì mỏi mệt mà những người lính đang ngủ thiếp đi, đang tranh thủ nghỉ ngơi ngay trên đường hành quân. Nếu hiểu như vậy cũng đủ để thấy nỗi vất vả của người lính Tây Tiến, giấc ngủ có mấy khi được trọn vẹn, hay chỉ vừa chợp mắt đã giật mình tỉnh giấc, phải chăng vì tiếng bom đạn quân thù, vì mối lo dẹp loạn, giữ nước vẫn canh cánh trong lòng chưa thể nguôi ngoai.

~ Nhưng nếu xét kĩ hơn thì có lẽ đây chính là những câu thơ nói trực tiếp đến sự hy sinh của người lính trên chặng đường hành quân. QD không né tránh sự thật mà sử dụng cách nói giảm, nói tránh để tránh đi sự hy sinh, giảm nhẹ sự mất mát, nỗi đau thương trong lòng bạn đọc cũng như trong lòng mình, qua đó nó còn thể hiện tư thế của những người lính trong lúc hy sinh, sự ngạo nghễ, coi thường cái chết, đối mặt với cái chết bằng tâm thế, thái độ vô cùng thanh thản: với họ, cái chết chẳng qua chỉ là “không bước nữa”, chỉ giống như một giấc ngủ dài gục vội lên chiếc mũ sau chặng đường hành quân vất vả, chỉ là tạm bỏ quên cuộc đời ở phía sau lưng mà thôi.

=> Chính thái độ này khiến hình ảnh người lính Tây Tiến mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, khi xông pha ra xa trường, coi cái chết nhẹ “tựa hồng mao”

=> Những câu thơ trên đã làm cho bài thơ, cũng như chân dung của người lính Tây Tiến mang nét đẹp riêng độc đáo, vừa chân thực vừa lãng mạn, không thể trộn lẫn. Đây cũng chính là lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì đất nước của cả một thời đại, một thế hệ anh hùng.

- Đối với Quang Dũng, núi rừng miền Tây không chỉ đẹp ở sự hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng mà nó còn hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, bí hiểm vô cùng. Những câu thơ tiếp theo càng gợi lên sự vất vả của người lính giữa bốn bề hiểm nguy nhưng vẫn ánh lên sự dũng cảm, kiên cường vì tổ quốc.

“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét

   Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông

là những nơi xa lạ với bạn đọc, nhưng nhà thơ đã thật tài tình khi đưa tên những địa danh này vào từng câu thơ của mình. Mới chỉ nghe tên thôi mà ta đã cảm thấy xa xôi, bí hiểm, nhất là cái tên Mường Hịch: đọc lên thấy sự nặng nề, ghê rợn,…

+ Ở miền Tây xa xôi ấy, tiếng thác đổ

gầm thét, gồng mình gào lên dữ dội như để chứng tỏ cái oai linh của rừng thẳm. Tiếng nước từ thác dội xuống như sẵn sàng cuốn sạch hết mọi thứ trên đường đi của nó.

+ Ở nơi ấy, khi người lính dừng chân hạ trại, trong đêm khuya tĩnh mịch có thể nghe tiếng bước chân của những loài thú dữ đang rình rập,

đe dọa xung quanh khiến khung cảnh núi rừng càng trở nên hoang dã, hiểm nguy. Đó chính là một khó khăn, nguy hiểm nữa mà người lính Tây Tiến phải đối mặt trên bước đường hành quân.

+ Điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm”

diễn tả nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa, rình rập người lính bất cứ khi nào. Sự nguy hiểm ấy không phải chỉ đến trong chốc lát, không phải trong một ngày mà nó diễn ra hằng ngày, cả ngày lẫn đêm, như quy luật của tự nhiên.

+ Nhưng trước những hiểm nguy đó dường như họ không hề nao núng, sợ sệt.

Với họ, tiếng thác gầm, cọp rống chẳng qua là để “trêu người”. Họ tham gia kháng chiến với duy nhất một mục đích là tiêu diệt kẻ thù, khi giặc còn hoành hành thì họ còn xông pha, chẳng có khó khăn, hiểm nguy nào có thể làm họ chùn bước. Qua lời thơ, chúng ta thấy được sự tếu táo, tinh thần lạc quan, thái độ ngạo nghễ, coi thường hiểm nguy đầy chất lính.

- Có lẽ trong kí ức nhà thơ, trong nỗi nhớ nhung da diết, không chỉ hiện hữu cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc, không chỉ là chặng đường hành quân gian nan mà tâm hồn nhà thơ khi ấy nhớ về những năm tháng không thể nào quên với những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

=> Đoạn thơ được mở đầu bằng nỗi nhớ và cũng kết thúc bằng nỗi lòng da diết nhớ thương.

+ Nếu mở đầu bài thơ, tác gỉa viết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” thì đến đây nhà thơ bộc bạch “Nhớ ôi Tây Tiến”.

Hai tiếng “nhớ ôi” vừa diễn tả được nỗi nhớ nhung mãnh liệt, không thể kìm nén, phải bật thốt lên thành tiếng gọi. Tiếng gọi ấy không phải để trải lòng mà để thể hiện nỗi nhớ sau khi đã trải rộng dài theo không gian thì bây giờ nó được đo bằng chiều sâu của tâm hồn, chan chứa biết bao tình yêu thương.

+ Nỗi nhớ ấy gắn với kỉ niệm tưởng chừng rất bình thường, giản dị nhưng lại chan chứa biết bao tình cảm, tình quân dân.

Đây là khoảnh khắc mà người lính dừng chân hạ trại ở bản làng nào đó, được dân làng, nhất là những thiếu nữ vùng Tây Bắc đón tiếp nồng hậu bằng những nồi cơm đang bốc khói tỏa hương.

+ Các cụm từ “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”

là những hình ảnh giàu chất tạo hình. Người đọc có thể hình dung ra trước mắt mình những làn khói ấm nồng đang lan tỏa, mùi hương thơm của xôi nếp đầu mùa cứ vương vấn, quấn quyện, thoang thoảng đâu đây, nó gọi mời, quyến rũ vô cùng.

Nhớ mùi hương “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào thân yêu. Chế Lan Viên cũng từng viết về hương vị của tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương

Lính Tây Tiến nay đã “xa rồi” nhưng có bao giờ quên “Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” ấy?

+ Đặc biệt là hai chữ “mùa em”,

nó vừa có cái chân chất, giản dị của tình người, tình quân dân, nhưng cũng có cái tình tứ, cái lãng mạn của người lính Tây Tiến, của những chàng trai hào hoa ra đi từ Thăng Long. Phải chăng đó là sự xúc động trước nét đẹp từ tâm hồn thấm đượm tình quân dân nồng hậu. Giữa những tháng ngày gian khổ, thiếu thốn, gặp được những người con trẻ tuổi, đáng mến như vậy, ai mà không rung động cho được?

ó Kết thúc đoạn thơ thứ nhất, với nỗi nhớ da diết khôn nguôi, Quang Dũng đã làm sống dậy cả một vùng thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Vùng thiên nhiên ấy đã gắn liền với những kỉ niệm của một thời chinh chiến tuy gian khổ nhưng chan chứa yêu thương, chan chứa nghĩa tình. Qua đoạn thơ, nhà thơ cũng cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến, đó là những con người giàu ý chí, giàu bản lĩnh, coi thường, bất chấp, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ nhưng đó cũng là những con người trẻ tuổi với tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Nhà thơ bộc lộ tài năng nghệ thuật của mình qua cách kết hợp cảm hứng lãng mạn và chất hiện thực, kết hợp chất nhạc với chất họa, làm cho người đọc càng trở nên ấn tượng, thích thú.

* Với QD, nhớ về Tây Tiến, không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, mà nơi đây còn lưu giữ bao kỉ niệm thắm đượm tình quân dân.

- Những người lính Tây Tiến, trên đường hành quân, ngoài những vất vả, gian lao, có lúc họ dừng chân hạ trại ở một bản làng nào đó, tổ chức đêm liên hoan văn nghệ có sự tham gia của đồng bào địa phương:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ăm ắp tiếng cười, rất sôi động, rực rỡ được mở ra với hai tiếng “bừng lên”.

Đây là động từ mạnh, trước hết gợi lên nguồn ánh sáng mạnh, có sức lan tỏa rộng, đồng thời gợi lên nói, tiếng cười, tiếng khèn, điệu hát tưng bừng rộn rã. Nguồn ánh sáng đó đã xua tan đi màn đêm đen tối nơi núi rừng, tiếng nói cười như xua tan sự mệt mỏi sau những ngày tháng hành quân.

+ Không gian tràn ngập ánh sáng như trong đêm hội hoa đăng rực rỡ sắc màu, với người lính Tây Tiến, quang cảnh ấy chẳng khác nào một “hội đuốc hoa”, như một lễ cưới lớn.

Hình ảnh những ngọn đuốc sáng rực rỡ khi đốt lửa trại giống như những cây nến được thắp lên lung linh trong phòng cưới – “đuốc hoa” là cây nến được thắp lên trong đêm động phòng hoa chúc của cặp vợ chồng mới cưới. Nhìn những ngọn đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan văn nghệ mà như những ngọn đuốc hoa, đêm liên hoan văn nghệ trong con mắt của người lính TT đã trở thành một lễ cưới lớn. Cái nhìn ấy là nét dí dỏm, nét tinh nghịch, cái nhìn đa tình, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Họ quả là những con người giàu khát vọng hạnh phúc, giàu khát vọng yêu thương.

+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấy càng thêm phần sôi động, hấp dẫn với người lính khi có sự xuất hiện của những người con gái xinh đẹp miền Tây Bắc.

~ Họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hội này “tự bao giờ”.  Sự xuất hiện ấy làm cho người lính vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng đến hạnh phúc. Từ “kìa” để thể hiện sự bất ngờ đến khó tả, sự háo hức, say đắm trước vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của những người con gái.

~ Hai chữ “xiêm áo” gợi lên hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc khi xuất hiện chẳng khác nào những nàng tiên, những nàng công chúa,

~ nhất là khi họ say sưa trong điệu kèn, tiếng nhạc, với những vũ điệu vừa hoang dã, vừa tràn đầy sức sống: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”.

=> Những từ “man điệu”, “e ấp” gợi hình ảnh những người con gái có những vẻ hấp dẫn, quyến rũ độc đáo: họ vừa lộng lẫy, vừa mềm mại, duyên dáng, vừa e ấp, thẹn thùng, sự kín đáo, có chút ngại ngùng nhưng cũng rất tình tứ, đấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.

=> Chỉ bằng một vài nét phác họa, Quang Dũng đã làm nổi bật lên hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ ánh sáng, rộn rã âm thanh, chan chứa tình người.

+ Được sống trong  đêm liên hoan văn nghệ ấy, tâm hồn người lính càng như được xây đắp bằng thơ, bằng nhạc, bằng họa: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Câu thơ đã diễn tả được cảm xúc sung sướng, say đắm, ngất ngây của những người lính Tây Tiến khi được thưởng thức vẻ đẹp mang đậm màu sắc phương xa xứ lạ của Tây Bắc.

=> Những khoảnh khắc đó làm cho người lính thêm trẻ trung, vui tươi, như tiếp thêm sức mạnh để họ vượt qua mọi gian nan phía trước, nó cũng là sức mạnh đã đẩy chiến tranh vào một góc khuất, để niềm vui, sự yên bình được lên ngôi.

* Nếu như khổ thơ trước giống như bức tranh sơn mài rực rỡ thì khổ thơ tiếp theo, với khung cảnh sông nước miền tây thơ mộng hiện lên trong kí ức của nhà thơ như bức tranh lụa mượt mà:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

 Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

 Có nhớ dáng người trên độc mộc

 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Bức tranh sông nước hiện lên trong vẻ bình yên của buổi chiều với làn sương giăng mắc, huyền ảo, lung linh, mặt nước dòng sông trải rộng mênh mang.

Chỉ với hai tiếng “chiều sương”, tác giả đã gợi ra được cả một miền không gian bồng bềnh, nửa thực nửa hư, cứ như ở trong cõi mộng.

- Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những câu hỏi tu từ “có nhớ”,“có thấy”

để thể hiện nỗi nhớ da diết, gợi lên những kí ức đậm sâu trong lòng mình. Những câu thơ này nhằm khơi gợi lên bức tranh cảnh vật, con người trên sông nước miền Tây, ẩn đằng sau đó là là kỉ niệm một thời chinh chiến.

- Hai chữ “hồn lau”

gợi hình ảnh một dòng sông hoang vắng, hai bên bờ lau lách xào xạc. Trong kí ức của QD, cảnh vật miền Tây Bắc dường như cũng mang linh hồn khiến con người tha thiết nhớ thương.

=> Đây cũng là tình cảm của bất kì ai đối với những mảnh đất, những miền quê mà mình đã từng đi qua.

Trong thơ, “hồn lau” dường như luôn mang một tâm tình, một suy ngẫm, một nỗi buồn man mác nhớ thương:

                                   “Ngàn lau cười trong nắng

                                    Hồn của mùa thu về

                                    Hồn của mùa thu đi

                                    Ngàn lau xao xác trắng”

                                                        (Lau mùa thu- Chế Lan Viên)

- Quang Dũng nhớ về miền quê ấy không chỉ là nhớ về cỏ cây, sông nước, hoa lá, bến bờ mà còn nhớ “dáng người trên độc mộc”.

chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng? “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo. “Dáng người” ấy hình như cứ trở đi trở lại giữa những vần thơ được Quang Dũng gửi tình:


                                    “Bến vắng chiều xuân hoa gạo rơi

                                    Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi

                                    Đò ngang một chuyến qua mưa bui

                                    Nhớ mãi người đi… bóng dáng người”

+ Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm của một thời đã xa

+ Trên mặt nước dòng sông còn có hình ảnh một bông hoa đang đong đưa trôi theo dòng nước lũ.

Dòng sông cuồn cuộn chảy, bông hoa vô cùng nhỏ bé nhưng vẫn có nét duyên dáng, hài hòa với dòng sông, bông hoa như đang uốn mình, cố tình đong đưa theo dòng nước. Tác giả sử dụng từ “đong đưa” chứ không dùng từ “đung đưa” để miêu tả. Từ “đung đưa” chỉ đơn thuần là miêu tả cảnh vật trên từng con sóng, là sự chuyển động mà ta nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng “đong đưa” chỉ cái chuyển động nhẹ nhàng mà dường như rất tình tứ, không chỉ được cảm nhận bằng mắt thường mà còn được cảm nhận bằng tâm hồn thi sĩ, nhà thơ diễn tả được tình ý thầm kín của cảnh vật, cánh hoa rừng trên sóng nước như đang có chút lả lơi, gọi mời. Cảnh vật vì thế mà cũng trở nên có hồn và sinh động hơn.

(MR- BL) Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết /đắt/ nhất mà Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế?

=> Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao nguyên đến như vậy!

=> Nếu ở đoạn thơ mở đầu, thiên nhiên miền Tây chủ yếu được khắc họa bởi nét dữ dội, hiểm trở thì ở đoạn thơ này, Quang Dũng tập trung miêu tả nét trữ tình của con người hòa quyện với thiên nhiên. Nếu ở khổ thơ trước, tác giả viết lên khúc nhạc rộn rã, sôi động thì ở khổ thơ này là khúc nhạc êm đềm, du dương được cất lên bằng tâm hồn say đắm, thiết tha.

=> thơ QD giàu chất nhạc, chất họa

* Quang Dũng không chỉ gợi mở bức chân dung người lính gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, sau chặng đường hành quân, qua những kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ, đến đoạn thơ thứ ba, nhà thơ trực tiếp khắc họa một cách rõ nét, chân thực về bức chân dung người lính Tây Tiến từ diện mạo đến vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng và cả sự hy sinh cao đẹp của họ.

- Vẻ đẹp ngoại hình:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

+ Với hai chữ “đoàn binh”, tác giả gợi mở bức chân dung một tập thể, một đoàn quân đông đảo, hùng hậu, đầy sức mạnh

=> Dưới ngòi bút của Quang Dũng, dường như lần đầu tiên trong văn học Việt Nam nói chung cũng như trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng, tác giả đã miêu tả một cách đầy ấn tượng bức chân dung tập thể, một cụm tượng đài về người lính.

- Đoàn binh ấy hiện lên với diện mạo thật khác thường, có phần kì dị: đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”.

+ Nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả thực, ông không hề có ý định né tránh hiện thực gian khổ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của người lính, cũng như của dân tộc ta lúc đó thiếu thốn đủ đường: thiếu lương thực, thực phẩm; chặng đường hành quân thì có biết bao những khó khăn, nguy hiểm đang rình rập, ốm đau, bệnh tật, do sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của địa bàn hành quân nơi “rừng thiêng nước độc”. Đặc biệt, hậu quả rụng tóc, làn da xanh xao, vàng vọt ấy còn là do những cơn sốt rét rừng không ai lường trước được.

=> người lính TT: tóc rụng, làn da ngả màu xanh tái như lá rừng, vẻ bên ngoài của họ thật tiều tụy.

=> Đây cũng là nét gian khổ của những người lính trong thời kháng chiến chống Pháp:

. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt rung người vầng trán ướt mồ hôi (Chính Hữu)

. Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu đến thế (Tố Hữu)

+ Nhưng có điều khác là, cảm hứng lãng mạn trong ngòi bút của Quang Dũng đã biến vẻ tiều tụy ấy thành sức mạnh nội tại, phi thường. Người lính Tây Tiến tuy ốm mà không yếu, tuy thể trạng mệt mỏi nhưng ý chí không bao giờ lung lay, da dẻ xanh xao nhưng vẫn toát lên sức mạnh của chúa sơn lâm,

“không mọc tóc”, chữ “không” là từ phủ định đã thể hiện được sự chủ động trước khó khăn, gian khổ với thái độ coi thường, thậm chí thể hiện tư thế ngạo nghễ, hiên ngang của người lính. Ba tiếng“dữ oai hùm” khiến hình ảnh của người lính trở nên uy nghi, lẫm liệt

=> Với khí phách ấy, đoàn binh Tây Tiến đã khiến giặc Pháp phải kinh hồn bạt vía;

+ Hình tượng người lính hiện lên đầy ấn tượng không chỉ bởi diện mạo khác thường mà ở họ còn có đời sống tâm hồn vô cùng phong phú, họ là những người lãng mạn, mộng mơ, giàu khát vọng:

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

  Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

~ là người có khát vọng:

Hai tiếng “mắt trừng” - như gợi hình ảnh đôi mắt có cả sự giận dữ, lòng căm thù và cả khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ.  “Mộng” ở đây là khát vọng giết giặc lập công để giành lại độc lập dân tộc.

~ ”qua biên giới” - Có thời điểm địa bàn hoạt động cách mạng của người lính Tây Tiến là bên kia đất Thượng Lào, trong tâm trí của họ lúc nào cũng cháy bỏng thù nhà, nợ nước, nên lúc nào hướng ánh mắt, niềm khát vọng của mình “qua biên giới”, hướng về quê hương, đất nước.

=> Câu thơ khắc họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính có lý tưởng và khát vọng lớn lao, họ sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn như những tráng sĩ xưa Giã nhà đeo bức chiến bào/ Thét roi cầu vị ào ào gió thu.

+ Những người lính Tây Tiến khi xông pha ra xa trường, họ đã không chỉ mang theo bên mình súng, ống, gươm, đao mà họ còn mang theo cả một thế giới tâm hồn lãng mạn với nỗi nhớ v“dáng kiều thơm” – trong những giấc mơ đêm đêm họ vẫn mơ về những người con gái đẹp nơi quê nhà:

~ Hình ảnh “dáng kiều thơm” là để chỉ những người con gái đẹp, là bóng dáng giai nhân của Hà thành, người con gái của Hà Nội với vẻ thùy mị, nết na, thanh lịch, duyên dáng, yêu kiều,…

=> Nỗi nhớ nhung ấy một thời người ta cho là “mộng rơi mộng rớt” của tầng lớp tiểu tư sản trí thức Tây học, cũng vì thế có người đã có lúc ác cảm với bài thơ “Tây Tiến”.

~ Những người lính Tây Tiến là những chàng trai hào hoa xuất thân từ Hà Nội, mà người Hà Nội nổi tiếng với câu ca:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”

như một lẽ tất nhiên, người con gái Hà thành trong tâm trí của những chàng trai độ tuổi mười tám đôi mươi ắt phải là “dáng kiều thơm”- giai nhân, mỹ nữ, yêu kiều, duyên dáng

=> Hình ảnh “dáng kiều thơm” có thể là người yêu, người vợ, người mẹ - những người con gái, người phụ nữ tượng trưng cho nét đẹp của người Hà Nội, tượng trưng cho nét đẹp của quê hương, là hậu phương vững chắc, những người đang từng ngày mong chờ người lính Tây Tiến mang chiến thắng trở về.

~ Cũng giống như những người lính ra đi từ những miền quê nghèo khó, họ nhớ về “người vợ mòn chân bên cối gạo canh khuya”, nhớ về giếng nước, gốc đa, ..., thì những chàng trai ra đi từ Hà Nội sẽ nhớ về “dáng kiều thơm”, là nỗi nhớ về quê hương, nhớ về những người thân yêu nơi quê nhà. Nỗi nhớ ấy sẽ tiếp thêm sức mạnh để người lính tiếp tục cuộc trường chinh, bởi họ hiểu rằng họ chiến đấu vì chính những người thân yêu nơi quê nhà. Chính những tình cảm tưởng chừng như rất đỗi đời thường, giản dị nhưng lại là nguồn động viên tinh thần to lớn cho người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy.

=> “Hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương)- tâm hồn người lính TT có cả “mộng” và “mơ”, cả “nghĩa chung” và “tình riêng” (Trịnh Thu Tuyết), nó đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn toàn vẹn: họ không chỉ có lý tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà họ còn là những chàng trai lãng mạn, mộng mơ, có trái tim chan chứa tình yêu thương.

Những chàng trai HN trong đoàn quân TT thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu, còn lý tưởng cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao;

=> đây là những nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người VN dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.

- Với người lính Tây Tiến, họ không chỉ có một tâm hồn đẹp đẽ mà họ còn có một lí tưởng cao cả, sự hi sinh cao đẹp:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

+ Cảm hứng và ngòi bút của Quang Dũng một lần nữa đã không né tránh hiện thực. Nhà thơ đã tái hiện sự mất mát, đau thương của những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ

~ Họ đã hy sinh, những nấm mộ của họ nằm dọc miền biên cương xa xôi, thậm chí ở những nơi hoang lạnh nhất. Những từ ngữ như “rải rác”, “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” – gợi lên miền đất xa xôi, thể hiện nỗi đau xót khi nhìn vào hiện thực của nhà thơ => những chàng trai HN khi hi sinh thân xác của họ nằm lại nơi đất khách quê người

~ 3 tiếng “mồ viễn xứ” vừa gợi không khí trang nghiêm, cổ kính, vừa gợi cho người đọc một niềm xót xa thương cảm. Khi lên đường, họ là những chàng trai trẻ đầy khát vọng, nhưng khi ngã xuống họ chỉ còn là những nấm mồ hoang lạnh nằm rải rác nơi đất khách quê người.

=> Dù năm tháng đã đi qua, sự hy sinh của đồng đội, chiến binh Tây Tiến vẫn là nỗi xót xa đến khôn nguôi, vẫn thổn thức không ngừng trong lòng tác giả.

+ Chỉ có điều, nói đến sự mất mát, đau thương nhưng âm hưởng của đoạn thơ không hề bi lụy mà ngược lại, vẫn toát lên tinh thần bi tráng. Sự ra đi ấy tuy đau thương nhưng thật hào hùng, ngạo nghễ chứ không hề bế tắc, bi lụy.

Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã sử dụng rất nhiều từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, “độc hành”, …. với chủ ý muốn gợi lên giọng điệu trang trọng, làm cho âm điệu của câu thơ trở nên rắn rỏi, gân guốc, giảm nhẹ nỗi đau thương, tạo nên giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ.

+hơn thế tinh thần bi tráng của người lính còn bởi họ hi sinh vì lý tưởng cao đẹp, chết vì quê hương, đất nước: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

~ Hai chữ “đời xanh” là từ chỉ tuổi trẻ - là quãng đời tươi đẹp nhất, giàu sức sống, hứa hẹn một tương lai với nhiều điều tốt đẹp.

~ Vậy mà những người lính lại “chẳng tiếc”, họ sẵn sàng hy sinh quãng đời tươi đẹp ấy vì quê hương, đất nước. Họ đã chiến đấu và hi sinh một cách thật thanh thản.

=> Trong câu thơ, hai tiếng “chẳng tiếc” với hai thanh trắc được đặt giữa 1 bên là chiến trường, một bên là đời xanh thể hiện rõ sự dứt khoát, mạnh mẽ của những người lính. Đó chính là tinh thần, lý tưởng cảm tử cho tổ quốc quyết sinh của cả thế hệ thanh niên Hà Nội đương thời

=> Với Quang Dũng, nhà thơ chắc chắn không thể tránh khỏi niềm đau xót, tiếc nuối trước sự hy sinh của đồng đội, tuy thế, ông cũng không né tránh hiện thực, đã phi thường hóa sự hy sinh của những người lính, những con người mang vẻ đẹp của cả một thời đại. Họ phảng phất chân dung của những tráng sĩ thuở xưa: “Quyết ra đi – chưa chiến thắng là ta chưa về.” “chí lớn chưa về bàn tay không”… nét đẹp này cũng gợi nhắc cho ta hình ảnh Kinh Kha sang đất Tần

+ Chân dung người lính Tây Tiến không chỉ trở nên đẹp đẽ lạ thường với lí tưởng sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho quê hương, tổ quốc mà họ còn đẹp đẽ, cao cả ngay trong cái chết, trong sự hy sinh:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

=> hai câu thơ này cũng làm toát lên chất bi tráng trong bức chân dung người lính TT, QD không né tránh hiện thực nhưng phi thường hóa hiện thực, lãng mạn hóa hiện thực

+ “Áo bào”

~ Trong thực tế, những người lính Tây Tiến hy sinh, họ trở về với đất mẹ trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, khó khăn, đến cả manh chiếu bọc thây cũng không có. Chính vì thế, đồng đội, những người còn sống đành phải chôn cất anh bằng chính bộ quân phục đã sờn vai bạc màu sương gió.

~ Quang Dũng, bằng cảm hứng bi tráng, lãng mạn, đã biến bộ quân phục sờn vai bạc màu thành tấm áo bào sang trọng, khoác lên mình đồng đội để giảm bớt nỗi xót xa, khiến cái chết của các anh trở nên đẹp hơn, cao cả hơn. Vì “áo bào” – ngày xưa là tấm áo vua ban cho tráng sĩ, anh hùng chiến thắng trở về => người lính TT chính là người anh hùng ngã xuống vì đất nước

=> Đây chính là tấm lòng, sự trân trọng, tôn vinh, ca ngợi của nhà thơ dành cho đồng đội.

+ Không chỉ thế, khi miêu tả sự hy sinh của những người lính Tây Tiến, khắc họa tinh thần bi tráng của người lính, nhà thơ đã sử dụng cách nói giảm, nói tránh “anh về đất”-

~ cách nói này vừa gợi lên tư thế hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản,

~ đồng thời bất tử hóa cái chết những người lính. Với Quang Dũng, sự hy sinh của những chiến binh TT là sự trở về với đất mẹ vĩnh hằng, các anh đã hòa mình, hóa thân vào dáng hình non sông đất nước, để làm nên Đất nước muôn đời. Nói như Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất Nước” (trích Trường ca MĐKV):

“… Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

=> Những người lính chính là những người anh hùng chiến đấu, hy sinh vì Đất Nước với một tâm thế tự nguyện, thanh thản. Họ hy sinh mà không mong được ghi tên vào sử sách, được ghi tên vào bia đá, bảng vàng. Với những người lính, với anh bộ đội cụ Hồ, với nhân dân nói chung, chiến đấu hy sinh là để bảo vệ nền độc lập tự do của Đất Nước, làm nên chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là sự hi sinh vô cùng cao đẹp!

+ Sự hy sinh của những người lính Tây Tiến đã để lại bao nỗi tiếc thương cho thiên nhiên, sông núi, đất nước, nhân dân:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

~ Dòng sông Mã không chỉ là hình ảnh gắn liền, chia sẻ những vui buồn với cuộc đời của người lính, mà còn tượng trưng cho thiên nhiên, cho đất nước.

~ “Khúc độc hành” – âm thanh dòng chảy sông Mã là tiếng khóc đau thương, dữ dội, là tiếng kèn bi tráng của thiên nhiên, cỏ cây, sông nước, của đất nước, quê hương tiễn đưa người lính.

=> Trong tiếng gầm của dòng sông Mã, ta bắt gặp sự đau xót, tiếc thương, sự trân trọng của nhà thơ cũng như của cả dân tộc dành cho người lính.

(MR) qua tiếng khóc của Sông Mã lại càng chứng minh sự hi sinh của người lính TT là vô cùng cao đẹp => bởi thời nào cũng vậy, người anh hùng hi sinh vì đất nước quê hương bao giờ cũng để lại nỗi tiếc thương lớn, tiếng khóc lớn => VTNSCG : Nhìn chợ Trường Bình trẻ già hai hàng lụy nhỏ/ Đoái sông Cần giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng

ó Chỉ bằng tám câu thơ, Quang Dũng đã khắc họa bức chân dung về người lính đầy đủ từ diện mạo, tâm hồn, sự hy sinh anh dũng, làm bật lên vẻ đẹp vừa lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.

* Khổ thơ cuối mang cảm xúc của nhà thơ khi quay trở về hiện tại, hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

- Ngay cả khi quay trở về với hiện tại rồi thì nỗi thương nhớ về đồng đội vẫn không thể nguôi ngoai, cứ day dứt, da diết đến cháy bỏng trong lòng thi nhân. Nỗi nhớ ấy được thể hiện rõ bằng những cụm từ “không hẹn ước”, “thăm thẳm một chia phôi”, “chẳng về xuôi”, …

Những người lính Tây Tiến đúng là những con người ra đi với một quyết tâm “nhất khứ bất phục hoàn”, các anh đã hy sinh vì quê hương, đất nước, thân xác các anh còn gửi lại ở miền viễn xứ, hồn còn ở Sầm Nứa nhưng đồng đội vẫn luôn nhớ về các anh, tổ quốc đã ghi công các anh để thế hệ sau ngàn đời tưởng nhớ.

- Khi xa TT, dường như một phần tâm hồn nhà thơ gửi lại ở Sầm Nứa chứ chẳng nguyên vẹn ở lại với Phù Lưu Chanh. Tấm lòng ấy cũng chính là lời thề không bao giờ quên Tây Tiến, không bao giờ quên đồng đội và những vùng đất mình đã đặt chân tới, một thời kì lịch sử hào hùng đã qua.

Trong cuộc đời mỗi con người, có những kỉ niệm sẽ đi cùng ta đến khi ta nhắm mắt xuôi tay, nó như là một phần cuộc sống, không thể thiếu đi được. Đối với Quang Dũng, nhà thơ đã phần nào bộc lộ được nỗi lòng của mình cùng với những kỉ niệm đã đi cùng năm tháng về những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Đọc toàn bộ bài thơ, chúng ta lại cảm phục tinh thần, ý chí bất khuất, kiên cường chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của thế hệ cha anh. Qua đây, chúng ta lại càng thêm yêu quê hương, muốn cống hiến hết mình vì quê hương để tiếp bước cha anh, kiến thiết đất nước ngày một giàu mạnh hơn.

Khách