Hướng dẫn soạn bài Rừng xà nu

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
1
5 gp

RỪNG XÀ NU

 

I. CÂU HỎI LUYỆN TẬP

Câu 1: Tóm tắt truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành? Nhan đề tác phẩm Rừng xà nu gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì?

a)Tóm tắt truyện:

Sau ba năm xa làng tham gia lực lượng vũ trang cách mạng, Tnú trở về thăm quê hương. Trong buổi tối sum họp cả làng, cụ Mết đã kể lại cho mọi người nghe về một trang sử bi hùng của làng, trang sử gắn bó chặt chẽ với cuộc đời Tnú.

Mĩ – Diệm kéo tới lùng sục khủng bố dữ dội, nhưng làng Xô Man vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ, trong đó có hai em nhỏ là Tnú và Mai cũng góp phần tích cực. Được cán bộ giác ngộ, làng chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy. Tin làng Xô Man mài dao đến tai bọn giặc, chúng tới vây làng, quyết bắt được người cầm đầu dân làng là Tnú. Cụ Mết, Tnú cùng thanh niên thoát ra rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố tinh thần dân chúng. Cuối cùng chúng bắt Mai (vợ Tnú) và đứa con đầu lòng mới sinh của Tnú ra hành hạ với ý đồ thâm độc: Bắt được con cọp cái và cọp con tất sẽ dụ được cọp đực trở về. Nấp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con bị đánh dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không thể tỉnh táo được nữa. Anh nhảy xổ vào lũ giặc, nhưng Tnú không cứu được vợ con. Giặc bắt trói anh, tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh trước mặt dân làng hòng tiêu diệt cái mộng cầm giáo mác của họ. Tnú kiên cường chịu đựng, nhưng tội ác của kẻ thù đã đẩy lòng căm hờn của dân làng tới cực điểm. Thằng Dục và cả tiểu đội ác ôn của nó đã bị hạ gục dưới lưỡi kiếm, lưỡi rựa của cụ Mết và đám thanh niên.

Tnú ra đi. Anh mang theo trong lòng kỉ niệm về một quãng đời thơ bé gắn bó với cách mạng, mang theo mối thù sâu nặng về cái chết của vợ con và những vết sẹo ngang dọc trên thân mình, mang theo niềm kiêu hãnh về làng anh, làng Xô Man bất khuất như rừng xà nu không bom đạn nào tiêu diệt được.

b)Ý nghĩa nhan đề:

Trong truyện ngắn này, hình tượng Rừng xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, từ đoạn văn mở đầu cho đến đoạn văn kết thúc. Mở đầu truyện là đoạn văn miêu tả rừng xà nu kiên cường trước bom đạn khốc liệt của kẻ thù. Kết thúc tác phẩm, nhà văn lấy lại nguyên văn câu viết về rừng xà nu ở phần đầu. Cách mở đầu và kết thúc nói trên để lại cho người đọc ấn tượng đậm nét về cây xà nu. Ngoài ra, trong câu chuyện về Tnú, về cuộc đời nổi dậy của làng Xô Man, cây xà nu luôn được nhắc tới với dụng ý nghệ thuật rõ nét. Nó không chỉ gắn với sinh hoạt hằng ngày của người Xô Man mà còn gắn với những sự kiện trọng đại của dân làng. Đồng thời, cây xà nu thấm sâu trong nếp suy nghĩ và cảm xúc của Tnú.

Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành miêu tả như một nhân vật có linh hồn, có tính cách và khắc họa trong sự hòa nhập, tương ứng với những phẩm chất của dân làng Xô Man. Nói cách khác, hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu vừa có ý nghĩa cụ thể vừa có ý nghĩa tượng trưng. Điều này người đọc có thể nhận thấy qua hai đoạn văn tập trung nói về hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu ở đầu và cuối đoạn trích của tác phẩm. Dân làng Xô Man yêu tự do có khác gì cây xà nu ham ánh sáng, ham khí trời? Dân làng Xô Man đã phải chịu biết bao đau thương mất mát, bao người đã bị giặc bắn chết, đọa đày giống như cây xà nu bị đạn giặc tàn phá. Cây xà nu nối tiếp nhau vươn tới, hiên ngang, bất khuất, mặc đạn bom của giặc, cũng như các thế hệ làng Xô Man, người này ngã xuống, người khác đứng lên, kiên cường, bất khuất chiến đấu. Như vậy, rừng xà nu đã được khắc họa cho những phẩm chất cao quý của dân làng Xô Man. Từ đấy, chúng ta có thể lí giải được ý nghĩa tiêu đề Rừng xà nu mà Nguyễn Trung Thành đã đặt cho tác phẩm.

 

Câu 2: Câu: “Nghe rõ chưa, các con đã nghe rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” của cụ Mết trong truyện Rừng xà nu muốn nhắc nhở thế hệ sau điều gì?

Câu nói trên của cụ Mết có thể coi như là một chân lí của thời đại, là chủ đề chính của thiên truyện, là cảm hứng chủ đạo của tác giả: có áp bức có đấu tranh. Chỉ có bạo lực cách mạng mới là con đường sống duy nhất của nhân dân Việt Nam trong những năm tháng đau thương ấy.

 

Câu 3: Theo anh (chị), hình ảnh cánh rừng xà nu và hình tượng nhân vật Tnú gắn kết hữu cơ, khăng khít với nhau như thế nào?

Hình ảnh cánh rừng xà nu và hình tượng nhân vật Tnú gắn kết hữu cơ, khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để trở thành một biểu tượng đẹp. Rừng xà nu không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt, khi con người chưa thấm thía những bài học “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” của cụ Mết rút ra từ cuộc đời Tnú. Mặt khác, nếu chúng ta có phải cầm vũ khí đứng lên thì mục đích cuối cùng của việc làm đó không phải là sự hủy diệt, mà là để giữ màu xanh của sự sống, để những cánh rừng mãi mãi xanh tươi.

 

Câu 4: Anh (chị) hiểu như thế nào về tính sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành?

Tính sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành có thể hiểu như sau:

- Cuộc chiến ác liệt kéo dài khiến cho mỗi con người Việt Nam trong thời điểm ấy đều cảm thấy thực sự gắn bó và hi sinh cho cộng đồng. Ra đời và phát triển trong không khí lịch sử đó, văn học 1945 – 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, gắn với toàn dân, gắn với chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khuynh hướng sử thi cùng với cảm hứng lãng mạn là một trong những đặc điểm nổi bật của nền văn học Việt Nam 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn Rừng xà nu nói riêng.

- Tác phẩm mang tính sử thi thường đi vào những vấn đề lớn của cộng đồng, dân tộc; tác phẩm thường hướng tới bối cảnh rộng lớn, hoành tráng; nhân vật là những người anh hùng kết tinh vẻ đẹp và lí tưởng của cộng đồng; hình ảnh trong tác phẩm thường kì vĩ, lớn lao, đẹp đẽ, phi thường; giọng điệu thiên về ngợi ca, tôn vinh… Những đặc điểm ấy chúng ta thấy rất rõ qua truyện ngắn Rừng xà nu.

- Rừng xà nu đề cập đến những chuyện sinh tử hết sức hệ trọng của cả cộng đồng Xô Man nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung, trong thời điểm có tính quyết định của lịch sử. Tác phẩm hướng tới cuộc chiến tranh một mất một còn giữa làng Xô Man và bè lũ tay sai. Cuộc xung đột được đẩy đến căng thẳng, quyết liệt đến độ: chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm mác. Đó là cuộc đọ sức giữa lòng yêu nước, yêu buôn làng với súng đạn dã man của quân thù.

- Về bối cảnh, truyện dựng lại được một không gian rộng lớn, đó là làng. Làng trở thành một hình tượng nghệ thuật không đơn giản chỉ là nơi sinh ra, lớn lên, nuôi dưỡng con người, mà còn là trầm tích văn hóa lịch sử của cộng đồng người Xô Man. Làng là nơi Tnú sinh ra, làng nuôi Tnú trưởng thành, làng ghi chứng những nỗi đau, hạnh phúc của cuộc đời anh, làng tiếp thêm sức mạnh để anh ra đi, để anh tiếp tục cống hiến cho cách mạng. Đêm Tnú trở về làng cũng là một đêm có kích cỡ khác thường. Theo Nguyên Ngọc, Rừng xà nu là truyện của một đời người và được kể trong một đêm, đó là cái đêm dài như cả một đời người.

- Truyện xây dựng được một tập thể những nhân vật anh hùng, đó là nhiều thế hệ người Xô Man trong cuộc chiến tranh bảo vệ buôn làng. Ở cụ Mết có cái vẻ đẹp của một cây xà nu già rắn rỏi, bản lĩnh. Ở Mai, Dít là những người phụ nữ can trường. Đặc biệt là ở nhân vật Tnú – vẻ đẹp của anh chính là vẻ đẹp kết tinh cao độ của cộng đồng Xô Man. Tnú là một chàng trai gan góc, dũng cảm; cuộc đời Tnú ghi dấu những đau thương cũng như những chứng tích đặc biệt của làng. Cuộc  đời Tnú chính là trang sử của làng Xô Man.

- Ngoài ra truyện còn xây dựng được một hệ thống hình ảnh kì vĩ, lớn lao, đẹp đẽ, phi thường. Hình ảnh rừng xà nu nối tiếp chân trời, lớp lớp cây xà nu tựa vào nhau tạo nên sức sống vô tận, bất diệt. Nhiều hình ảnh trong tác phẩm mang tính thẩm mĩ cao, gợi cái kì vĩ, phi thường như hình ảnh mười ngón tay Tnú đượm lửa xà nu, tiếng thét của Tnú trong cái đêm rừng Xô Man nổi giận, vẻ đẹp hình thức bên ngoài của cụ Mết…

- Giọng điệu của tác phẩm thiên về ngợi ca, tôn vinh, khẳng định. Đó là câu chuyện của cụ Mết kể lại cho buôn làng nghe trong cái đêm Tnú về thăm làng. Chất giọng ồ ồ, trầm nặng của cụ, không khí im thin thít của người nghe khiến chuyện của cuộc đời Tnú trở thành chuyện của lịch sử làng Xô Man từ đau thương đến quật khởi…

- Tính sử thi đậm đặc của truyện ngắn này giúp dựng lại được một bức tranh hoành tráng về cuộc chiến tranh ác liệt cũng như sự trưởng thành của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Trong khuôn khổ một truyện ngắn, tác phẩm mang một tầm vóc lớn, một ý nghĩa khái quát cao độ, khác thường.

 

II. ĐỀ BÀI LÀM VĂN

Đề 1: Sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

a)Mở bài:

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại, biết bao tên làng, tên đất đã đi vào lịch sử dân tộc. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn ấy, những con người, những làng xóm vốn hiền lành, giản dị bỗng như chói sáng bởi những phẩm chất anh hùng. Rừng xà nu – một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Trung Thành, đã phản ánh được hiện thực sinh động ấy: Sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Hai đoạn văn (đầu và cuối truyện) đã thể hiện rõ điều đó.

b)Thân bài:

Truyện dẫn dắt người đọc vào khung cảnh một Tây Nguyên hùng vĩ trong chiến tranh chống Mĩ. Vì thế mà đoạn văn đầu tác phẩm không miêu tả những buôn làng bình yên, những cánh rừng bạt ngàn, xanh tốt. Đập vào mắt người đọc là cảnh rừng xà nu bị tàn phá bởi đạn đại bác của giặc: “…Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con sông lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào xuống như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và quyện thành từng cục máu lớn”.

Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời… Chúng vươn lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng…” Chỉ một chi tiết này thôi cũng đủ để người đọc có thể hình dung mức độ tàn phá và tội ác của giặc. Mục tiêu chủ yếu của chúng là cái buôn làng nhỏ bé nằm sau cánh rừng già xà nu kia, là những con người nhỏ bé, gan dạ mà chúng chưa khuất phục được. Chúng phá những gì có thể tàn phá được, kể cả núi rừng, thiên nhiên vô tội. Dân làng Xô Man, cũng như mảnh đất Tây Nguyên đã phải gánh chịu bao cảnh mất mát đau thương bởi bàn tay của kẻ thù. Anh Xút bị treo cổ đầu làng, bà Nhan bị giết, chặt đầu cột tóc treo đầu súng, mẹ con Mai bị đánh chết… Tất cả nỗi đau thương mất mát đó, đối với Tnú, với dân làng Xô Man, với người dân Tây Nguyên, là món nợ phải trả bằng máu, là vết thương đang đặc quện lại trong tim họ, tạo ra sức mạnh mãnh liệt để chiến thắng kẻ thù. Chính lòng căm thù ấy đã giúp họ nhìn ra, tìm đến với Đảng, với chân lí. Chúng ta hãy xem nhà văn miêu tả cái sức sống mãnh liệt của rừng xà nu trong bom đạn: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Để viết được những dòng sinh động như vậy, hẳn nhà văn đã rất gắn bó với núi rừng Tây Nguyên và chiến trường ác liệt này. Có lần ông đã nói về loại cây này: “Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây xà nu ngay từ đó. Ấy là loại cây hùng vĩ mà cao thượng, man dại mà trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi…” Rõ ràng đây là loại cây có sức chịu đựng ghê gớm và có một sức sống mãnh liệt. Nhà văn đã rất quan tâm tới việc miêu tả hình ảnh dòng nhựa ứa tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh, vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng của cây xà nu. Song điều đáng nói ở đây chính là ý nghĩa tượng trưng của hình tượng – Nói tới sức sống tiềm tàng mãnh liệt của cây xà nu phải chăng tác giả muốn nói tới sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu không cân sức này? Giặc Mĩ dùng đại bác, súng ống… nhằm tiêu diệt, uy hiếp tinh thần họ nhưng chúng không làm gì được một cô bé, mặc dù mỗi lần viên đạn nổ, thân hình nó lại quật lên một cái. Chúng cũng không thể làm gì được cả buôn làng, khi mà họ đã nhận thức rất rõ là: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo. Rõ ràng, càng hung hăng, càng điên cuồng bao nhiêu, bọn giặc hơn lúc nào hết lại càng chứng tỏ sự bất lực của chúng bấy nhiêu. Sức sống tiềm tàng, sự chịu đựng đáng kinh ngạc của rừng xà nu cũng như của con người Tây Nguyên là một sự thách thức lớn đối với kẻ thù. Họ khao khát tự do, khao khát bình yên cũng giống như cây xà nu ham ánh sáng mặt trời. Hình ảnh cây xà nu vươn lên tiếp nhận ánh sáng được nhà văn miêu tả thật đẹp, sống động: Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Luôn vươn lên ánh sáng, không chịu chấp nhận cuộc sống nô lệ cũng chính là phẩm chất của những con người như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như bé Heng… của cả làng Xô Man. Chính vì khao khát tự do mà Tnú, Mai cố gắng học chữ để làm cán bộ giỏi thay người ngã xuống. Cũng chính vì tự do mà cụ Mết và dân làng Xô Man đã chịu cực khổ, thiếu muối, thiếu gạo, chỉ vì họ xác định rõ đánh Mĩ là phải đánh dài. Hành động giết hết bọn giặc gây tội ác để trả thù cho mẹ con Mai đêm ấy là hành động quyết liệt nhất để bảo vệ tự do. Người trước ngã, người sau tiếp bước. Anh Quyết hi sinh đã có Tnú và biết bao trai làng Xô Man, Mai chết đã có Dít, bé Heng… Sự tiếp nối của các thế hệ trong cuộc kháng chiến ác liệt này cũng chính là cội nguồn của sức sống không bao giờ cạn của con người Tây Nguyên. Nhà văn đã thành công trong việc tạo nên một sức khái quát lớn khi miêu tả cây xà nu với sức sống mãnh liệt cùng với sự sinh sôi nảy nở của nó: Đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế cho những cây bị ngã… Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên, có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những lưỡi lê.

Có thể thấy rõ hai đoạn văn (đầu và cuối) của truyện Rừng xà nu đã góp phần tạo nên một kết cấu nhất quán và độc đáo trong tác phẩm. Mặc dù tác giả chỉ xen vào trong câu chuyện những đoạn miêu tả có vẻ khách quan, nhưng người đọc thấy rõ cây xà nu, rừng xà nu là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, và hơn nữa, mang giá trị tượng trưng lớn. Đối với dân làng Xô man, không có một thứ cây nào gắn bó mật thiết với họ như cây xà nu, nó là một phần cuộc sống của họ. Từ cụ Mết được miêu tả như cây xà nu cổ thụ, vững chãi: ngực căng ra như một cây xà nu lớn cho đến lũ trẻ: mặt mũi lem luốc khói xà nu. Rồi xà nu được dùng làm đuốc soi cho Dít gằn gạo ngày Tnú đi lực lượng, xà nu xông khói cho đen tấm bảng Tnú và Mai học chữ… Xà nu còn gắn với những kỉ niệm đau thương: cũng chính lũ giặc lấy dầu xà nu đốt cháy mười ngón tay Tnú. Vì thế, cây xà nu hay chính thiên nhiên như hòa vào cuộc sống của con người. Hơn nữa, lại là một thiên nhiên ân tình đến nhường này: Cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng. Sức sống bất diệt và kiên cường của cánh rừng xà nu được nhắc lại trong đoạn văn cuối tác phẩm. Hình ảnh những cây xà nu mới nhú mà đã nhọn hoắt như những lưỡi lê làm người đọc liên tưởng tới những mũi chông, lưỡi mác, và lời cụ Mết “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ… mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây vụ, một cây rựa… Nỗi đau, niềm căm thù sôi sục đã đánh thức họ. Họ không còn cách nào khác là tự đứng lên, nghe theo tiếng gọi của Đảng để tự giải phóng mình. Ở cả hai đoạn văn, hình ảnh rừng xà nu nối tiếp chạy tới chân trời đều được tác giả nhắc đến như khẳng định lại sức sống bất diệt không có gì khuất phục nổi của thiên nhiên, của con người Tây Nguyên.

Như vậy, cùng với cách sắp xếp thời gian độc đáo trong truyện, cùng với việc xây dựng tài tình những phẩm chất điển hình ở những nhân vật điển hình, hai đoạn văn đầu và cuối tác phẩm đã góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này. Tuy nhiên, qua đó, người đọc có thể nhận thấy nguyên nhân bên trong: Đó chính là sự gắn bó mật thiết, là tình cảm đầy trân trọng, yêu thương mà nhà văn dành cho đồng bào Tây Nguyên.

c)Kết bài:

Cuộc kháng chiến chống Mĩ thần thánh đi qua. Mấy chục năm cũng đã đủ để xóa đi dấu vết bom đạn trong những cánh rừng xà nu tít tắp của Tây Nguyên anh dũng. Nhưng nỗi đau mà những người dân Tây Nguyên đã phải trải qua cùng dân tộc; tinh thần đấu tranh bất khuất và sức sống mãnh liệt của họ vẫn là lời nhắc nhở các thế hệ tương lai phải sống sao cho xứng đáng. Xin được cám ơn nhà văn Nguyễn Trung Thành về lời nhắc nhở quý báu này!

(Nguyễn Thị Mai Huệ)

 

Đề 2: Tóm tắt và phân tích truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

a)Mở bài:

Mảnh đất Tây Nguyên kì vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống đấu tranh bất khuất… đã trở thành đề tài sáng tác của nhiều tác giả. Nếu như Bài ca chim Chơ Rao của Thu Bồn là khúc hát trong trẻo, nồng đượm; Bóng cây Kơ nia của Ngọc Anh là vẻ đẹp của tình yêu thủy chung son sắt; thì Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lại là bản hùng ca ca ngợi sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Tây Nguyên.

b)Thân bài:

-Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác:

Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời vào giữa năm 1965 trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. Tác phẩm đã tái hiện lại không khí của một giai đoạn quyết liệt trong phong trào cách mạng giải phóng miền Nam khoảng từ năm 1955 đến năm 1959, thông qua hai câu chuyện đan cài nhau: chuyện về cuộc đời của Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Trong đó, chuyện về cuộc đời Tnú giữ vị trí chủ đạo. Truyện Rừng xà nu có thể tóm tắt như sau:

-Tóm tắt truyện:

Làng Xô Man ở trong tầm đại bác của giặc. Đạn giặc tàn phá khốc liệt rừng xà nu, nhưng cũng như những con người của làng Xô Man, nó vẫn kiên cường vươn tới. Nhân Tnú về thăm làng, nghỉ tại nhà cụ Mết, đêm đó cụ đã kể cho dân làng nghe chuyện về cuộc đời của Tnú.

Những năm ấy, giặc Mĩ và tay sai khủng bố vô cùng dã man phong trào cách mạng, nhưng dân làng Xô Man vẫn tìm cách nuôi dưỡng cán bộ. Tnú vốn là chú bé cha mẹ chết sớm, được dân làng đùm bọc. Tnú cùng với Mai là hai trong số những thiếu niên hăng hái vào rừng tiếp tế cho cán bộ (sau này Mai trở thành vợ Tnú). Tnú được cán bộ Quyết dìu dắt. Tnú làm liên lạc. Sau bị bắt giam. Thoát tù, anh trở về cùng dân làng chuẩn bị vũ khí chiến đấu.

Được tin này, giặc hùng hổ kéo về làng. Trước cảnh vợ con bị giặc tra tấn dã man, từ nơi ẩn nấp, Tnú đã xông ra cứu vợ con. Anh bị bắt. Bọn giặc đã tẩm nhựa xà nu đốt mười ngón tay anh, bốc cháy thành mười ngọn đuốc. Tnú vẫn kiên cường, bất khuất. Trước cảnh tượng dã man này, dân làng Xô Man đứng đầu là cụ Mết đã kêu gọi: tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông để chiến đấu. Đêm ấy, cả làng Xô Man ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng… Rồi Tnú gia nhập bộ đội giải phóng. Anh luôn khắc sâu mối thù quân giặc, và chiến đấu rất dũng cảm. Sau ba năm, Tnú được phép về thăm dân làng thân yêu của anh.

-Phân tích:

Truyện được mở đầu bằng hình ảnh cánh rừng xà nu ngày ngày bị bom đạn kẻ thù tàn hại nhưng vẫn căng đầy nhựa sống: Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con sông lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào xuống như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt… Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời… Chúng vươn lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…

Có thể nói, tác giả đã thể hiện được tình yêu sâu sắc, say đắm của mình đối với cây xà nu, rừng xà nu, loại cây tượng trưng cho con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Chọn rừng xà nu làm nền tảng cho câu chuyện, Nguyễn Trung Thành đã tạo được không khí Tây Nguyên, bởi giữa cây và người có những nét tương hợp kì lạ. Theo tác giả, xà nu là loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch… vừa thanh nhã vừa rắn rỏi… tưởng như đã sống từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau…

Tình yêu của Nguyễn Trung Thành đã thổi bùng lên sức sống bất diệt của rừng xà nu, của những con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường, dũng cảm: Nhưng cũng có những cây vượt lên cao được hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng.

Hình ảnh rừng xà nu đã tạo nên những lên tưởng bất ngờ và thú vị trong lòng tác giả. Rừng xà nu là một phần sự sống Tây Nguyên, đồng thời nó cũng tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, bất khuất đã bao đời tồn tại, sinh sôi trên mảnh đất này.

Nổi bật trong truyện là bốn hình tượng: cụ Mết, Dít, Tnú và bé Heng – tiêu biểu cho các thế hệ dân làng Xô Man. Mỗi nhân vật là một hình tượng nghệ thuật với tính cách cụ thể và cá tính sinh động.

Cụ Mết là một cụ già quắc thước, sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực, râu đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ giàu lòng tự hào và tin tưởng vào dân tộc mình, quê hương mình. Cụ Mết chính là hình ảnh tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống hiên ngang bất khuất, cho sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân làng Xô Man.

Tấm lòng cụ Mết đối với Đảng trước sau như một. Cụ từng nói với dân làng: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn. Lời cụ đơn giản, rõ ràng như chân lí. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô Man bất chấp gian khổ, hiểm nguy, chết chóc, vẫn nuôi giấu cán bộ cách mạng và tự hào năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

Chính cụ Mết đã lãnh đạo dân làng Xô Man tự phát vùng lên giết giặc tự cứu lấy mình. Tên ác ôn Dục, kẻ sai lính đập chết mẹ con Mai, đốt cháy mười ngón tay Tnú, đã phải đền tội: Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ. Người đọc không thể nào quên hình ảnh hào hùng của người thủ lĩnh già:

Cụ Mết chống giáo xuống nền nhà, tiếng nói vang vang:

-Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tự tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!

Lời nói của cụ đốt cháy ngọn lửa căm thù trong lòng mỗi người dân Xô Man đối với bọn giặc tàn ác, thôi thúc họ vùng lên cầm vũ khí đấu tranh giành quyền tự do, quyền sống, quyền hạnh phúc của mình. Cụ Mết chính là linh hồn của làng Xô Man, là cây xà nu đại thụ sừng sững giữa đất trời Tây Nguyên.

Tnú, Mai, Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu cho lớp trẻ Tây Nguyên. Mỗi nhân vật trong tác phẩm có một tính cách và số phận khác nhau, nhưng điểm nổi bật ở họ đó là ý chí, nghị lực và sự kiên cường bất khuất trong chiến đấu; hiền lành, giản dị, nhân hậu trong cuộc sống đời thường. Nhân vật Tnú là một nhân vật tiêu biểu của tác phẩm, anh là một con người giàu tình cảm, trung thàh với cách mạng. Tnú như một cây xà nu cường tráng nhất trong đại ngàn xà nu Tây Nguyên. Nhưng đây cũng là cây xà nu chịu nhiều vết đạn nhất vì cuộc đời anh gặp nhiều bi kịch. Tuổi ấu thơ, bố mẹ của Tnú chết sớm. Cụ Mết khi kể chuyện về anh đã nói: Đời nó rất khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta… Còn nhỏ, nhưng Tnú rất gan dạ, dám đi tiếp tế cho cán bộ. Tnú là người có cá tính. Lúc đầu học chữ, Tnú không tiến bộ bằng Mai. Để trừng phạt cái tội chóng quên, Tnú cầm một hòn đá tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng. Đến khi bị giặc bắt, chúng hỏi Tnú nơi ở của cộng sản, Tnú đặt tay vào bụng mà nói ở đây này, và lưng Tnú lại thêm một vết chém của kẻ thù. Nhưng nỗi đau của Tnú không phải là sự tra tấn dã man của kẻ thù, không phải là những vết chém dọc ngang trên cơ thể, mà nỗi đau lớn nhất của đời anh là khi chúng bắt Mai và đứa con mang ra tra khảo ngay chỗ anh, cụ Mết và thanh niên trong làng nấp không xa. Chúng đập cây sắt lần thứ hai vào ngực Mai và tiếp sau đó là hàng loạt những đòn mưa roi sắt xuống ngực hai mẹ con, lúc mà đứa trẻ khóc ré lên rồi im bặt, Mai cũng không thét nữa. Lúc đó Tnú đứng cạnh một gốc vả. Anh đã bức hàng chục trái vả mà không hay. Lòng căm thù đã dâng lên trong anh cực độ. Bi kịch khủng khiếp đã đến với Tnú: vợ con anh bị giết vì anh. Tnú đã vùng dậy, lao ra. Đó là sự phản kháng mạnh mẽ trong con người khi mà sự chịu đựng đã dâng đến cực điểm. Lửa trong lòng Tnú như dâng bỏng rát trong lòng anh, trong mắt anh. Ở giữa chỗ hai con mắt bây giờ là hai cục lửa lớn. Bằng tất cả tình thương dành cho vợ con, và bằng lòng căm thù đến cực điểm, Tnú đã hét lên và xông vào bọn lính, ôm chặt lấy vợ con. Anh không cứu được vợ con và bị giặc bắt. Khi bị bắt, Tnú đã suy nghĩ thật bình thản: Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng chết rồi, Tnú cũng sắp chết. Ai sẽ làm cán bộ? Đến khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc, cụ Mết đã già. Được còn bọn thanh niên. (…) Không sao… chỉ tiếc cho Tnú sẽ không sống được đến ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng… Đó là suy nghĩ của một con người dạt dào tình thương dành cho vợ con, một ý thức rõ ràng về cái chết mà kẻ thù sẽ dành cho anh. Đó cũng là suy nghĩ của một người khao khát làm cách mạng. Nhưng Tnú không chết, bi kịch xảy ra với anh đã phát thành sức mạnh phát động dân làng Xô Man đứng dậy đấu tranh chống lại kẻ thù. Giặc hành hạ Tnú bằng cách tẩm dầu xà nu vào giẻ, quấn quanh mười ngón tay anh rồi đốt. Mười ngón tay anh như mười bó đuốc cháy rực lên. Tnú cắn răng chịu đựng: Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi… Anh không thèm kêu van… Người cộng sản không thèm kêu van… Tnú thét lên một tiếng Giết! và tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Tiếng chân người đạp trên sàn nhà rung ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: Chém! Chém hết… và thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết… Tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Sơn về

Bằng vũ khí tự tạo cộng với lòng căm thù sục sôi, dân làng Xô Man đã giết sạch cả một tiểu đội lính, trả thù cho những người đã ngã xuống. Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến anh và dân làng Xô Man dứt khoát đứng lên, đánh trả giặc một cách mãnh liệt để bảo vệ quê hương, bảo vệ sự sống của mình.

Bên cạnh hình ảnh Tnú là hình ảnh Dít, một cô gái Tây Nguyên giống như một cây xà nu non lao thẳng lên trời. Dít nhỏ nhưng nhanh nhẹn, cứ xẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và thanh niên. Giặc bắt được Dít, chúng để Dít giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xén tóc, váy Dít rách từng mảnh, Dít khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, Dít chùi nước mắt, từ đó im bặt. Dít đứng lặng giữa sân nhìn bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, thân hình mảnh dẻ của Dít quật lên một cái nhưng mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.

Lớn lên Dít thành cán bộ, Dít là niềm tự hào của dân làng Xô Man. Với đôi mắt long lanh sáng, mở to, bình thản, suy nghĩ trang nghiêm và chất chứa yêu thương. Dít là hình ảnh của người phụ nữ Tây Nguyên hiền hậu, đoan trang nhưng cũng vô cùng gan dạ, đảm đang, sống có trách nhiệm, có nghĩa tình.

Nhân vật bé Heng cũng được xây dựng rất sinh động. Heng là một cây xà nu con tràn đầy nhựa sống. Heng là đại diện cho thế hệ tương lai, nối tiếp truyền thống cha anh.

c)Kết bài:

Truyện ngắn Rừng xà nu tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn 1945–1975, đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ở truyện ngắn này, khuynh hướng sử thi đã thể hiện khá rõ qua việc lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh, lẫn giọng điệu của tác phẩm. Đề tài của truyện Rừng xà nu nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng của làng Xô Man nói riêng, cả dân tộc Việt Nam nói chung, trong một thời điểm có tính chất quyết định của lịch sử. Những nhân vật trong tác phẩm tiêu biểu cho cộng đồng, lí tưởng sống của họ luôn gắn với sự sống của cả cộng đồng. Ở tác phẩm này, hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của tác phẩm Rừng xà nu thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

 

Đề 3: Viết một văn bản ngắn phát biểu suy nghĩ và cảm xúc của anh (chị) về hình ảnh đôi bàn tay của Tnú trong truyện Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).

Thoạt đầu là hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, bàn tay chú bé Tnú dắt cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu vài lon gạo đi nuôi cán bộ Quyết trốn ở rừng; bàn tay cầm viên phấn trắng lấy từ núi Ngọc Linh về viết lên bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu để học chữ i dài, chữ o thêm móc thành a; bàn tay cầm đá tự đập vào đầu chảy máu chỉ vì học dốt; bàn tay mang công văn đi làm liên lạc; hai bàn tay Mai đã cầm lấy, ở gốc cây to đầu rừng lách, khi Tnú thoát ngục Công Tum, bàn tay duyên nợ Mai vừa cầm vừa ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu.

Bàn tay nguyên vẹn đó không còn. Cụ Mết có bàn tay nặng trịch nắm chặt như kìm sắt hỏi: Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à?... Câu hỏi lúc đó rất đột ngột, như người sực tỉnh, chợt nhớ đến một điều hệ trọng. Ông cụ hỏi và tự trả lời. Cụ giận dữ nói tiếp: Được! Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Đúng thế, con người, thiên nhiên, đất nước vẫn sống, vượt lên mọi đọa đày, chém giết.

(…)

Bàn tay Tnú là bàn tay tín nghĩa, không biết phản bội. Cũng là một bàn tay chỉ đường. Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém – Cộng sản đâu, chỉ ra! Tnú nói nhỏ: - Cởi trói đã, tay mới chỉ được. Chúng nó cởi trói một tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình: - Ở đây này! Lại thêm những vết dao trên lưng Tnú, máu ứa đông đặc, tím thâm như màu nhựa xà nu.

(…)

 Thằng Dục tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn lên mười đầu ngón tay Tnú, mười điểm chót, bén nhạy nhất của hệ thần kinh. Dầu xà nu bắt lửa rất nhanh. Nó châm đốt dần từng ngón tay Tnú, như muốn thong thả nhấm nháp cái thích thú đao phủ đó : Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.

Dầu xà nu rất thơm nay khét lẹt mùi thịt cháy.

(…)

Bản năng yêu thương đã khiến Tnú xông ra cứu vợ con. Nhưng vợ con vẫn chết, còn mình bị tra tấn. Vì, như cụ Mết nói: Mày chỉ có hai bàn tay trắng. Chúng nó trói mày lại (…) Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Những bàn tay trắng, bàn tay không đó, có lí tưởng hướng dẫn, được tổ chức lại, sẽ làm nổi cơ đồ. Cụ Mết gọi thanh niên, đi tìm vũ khí. Câu chuyện đi tới đỉnh điểm với chân lí giản dị, sáng chói: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo.

Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm mồi châm ngọn lửa nổi dậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bột phát giết chết mười tên giặc. Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, bắn súng. Như cây xà nu bị mảnh đạn ứa nhựa tím bầm còn vươn cành đứng đó. Bàn tay không như cũ, nhận thức cũng không thể như cũ. Tnú đã phải trả giá đắt nhưng có được một kinh nghiệm lớn: Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục… Những thằng Dục mở mắt trắng dã nhìn tang chứng tội ác hiển nhiên của chúng. Nhìn bàn tay quả báo, bàn tay cụt mười ngón đang xòe ra bóp cổ chúng. Không ngờ sự trừng phạt lại đến nhanh chóng và ghê gớm đến vậy.

(Nhị Ca – Bàn tay Tnú và cây xà nu)

 

Đề 4: Hình ảnh cây xà nu trong truyện Rừng xà nu được tác giả miêu tả như thế nào? Hình ảnh đó có ý nghĩa gì trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm?

a)Mở bài:

Chủ đề chính trị còn chi phối hệ thống hình tượng ở Rừng xà nu. Trong hệ thống hình tượng này, không thể bỏ qua hình ảnh rừng xà nu (không chỉ mở ra mà còn khép lại thiên truyện) đi suốt tác phẩm như một nốt láy, một điệp khúc giàu ý nghĩa hiện thực và biểu tượng. Hình ảnh rừng xà nu như dàn nhạc đệm cùng tấu lên bản trường ca đau thương mà anh dũng của một Tây Nguyên bất khuất kiên cường.

b)Thân bài:

Như một duyên nợ không dứt ra được, khúc tráng bi về đại ngàn Tây Nguyên của Nguyễn Trung Thành đã khởi đầu bằng khúc nhạc rừng xà nu: Làng trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ. Mỗi ngày hai lần hoặc buổi sánh sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con sông lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào xuống như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và quyện thành từng cục máu lớn. Đúng là hình ảnh đau thương, và hào hùng ngay trong đau thương. Nhưng hào hùng, đau thương đều có tầm vóc lớn: Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời… Chúng vươn lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng… Cách miêu tả của Nguyễn Trung Thành khiến thiên nhiên không chỉ là thiên nhiên, rừng xà nu hóa ra là biểu tượng cây–người, đau thương mà anh dũng, và có tầm vóc như người. Ngay cả sáu chữ mở đầu đã lấp lánh tài năng: làng ở trong tầm đại bác, mấy chữ mở đầu của thiên truyện vào thế hiểm của hoàn cảnh, đặt không khí của truyện vào trạng thái căng thẳng của một cuộc đụng đầu lịch sử đầy quyết liệt. Chỉ có những tài năng mới tạo nổi âm hưởng chủ âm ngay từ lúc mới dạo đầu, bắt người đọc phải nâng tâm thế thưởng thức lên tầm vóc với sử thi mới cảm thụ được tác phẩm.

Toàn bộ phần thân truyện, rừng xà nu từ biểu tượng cây–người mở rộng nghĩa thành biểu tượng đời sống. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày, trong lịch sử ngàn đời của dân làng Xô Man: ngọn lửa xà nu cháy trong bếp, cháy ở đống lửa ở nhà rông nơi tập hợp dân làng, lập lòe trong ngọn đuốc đêm trường, khói xà nu quét đen tấm bảng cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ… Xà nu còn tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng: đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết và dân làng trong đêm vào rừng lấy giáo mác chuẩn bị cho đồng khởi; đêm đêm làng thức dưới ánh đuốc xà nu mài vũ khí; giặc đốt mười ngón tay Tnú bằng giẻ tẩm dầu xà nu; lửa xà nu soi rõ xác lũ lính chết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa làng… Cần chú ý một thủ pháp của Nguyễn Trung Thành: sự miêu tả cây xà nu chiếu ứng với người và ngược lại. Vì thế mà ta có một cụ Mết ngực căng như một cây xà nu lớn, còn vết thương trên lưng Tnú thì ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện lại, tím thẩm như nhựa xà nu… Thủ pháp này tạo sự hòa nhập, chiếu ứng giữa người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ.

Đến đoạn kết, một rừng xà nu có những cây mới mọc nhọn hoắt như những mũi lê, một rừng xà nu mênh mông hút tầm mắt lại được láy lại. Nhưng láy lại mà phát triển. Cái mũi lê nhọn hoắt kia là biểu tượng cho một nhân vật mang linh hồn, biểu tượng trọn vẹn cho nỗi đau, phẩm chất và sức mạnh của dân làng Xô Man, gợi ra ý nghĩa của nhan đề Rừng xà nu.

Như đã phân tích, hình ảnh xà nu có đặc sắc, gây ấn tượng đến đâu thì cũng chỉ là phong nền cho con người xuất hiện. Trong văn học sử thi, cái nhìn rạch ròi của tác giả thường bổ đôi hệ thống nhân vật thành hai tuyến rõ rệt: thiện – ác, chính – tà… Quan hệ khác tuyến là quan hệ tương phản gay gắt, tạo nên những xung đột quyết liệt. Điều này thể hiện rõ trong Rừng xà nu. Hệ thống nhân vật của thiên truyện có hai phe: ta và địch, cách mạng và phản cách mạng. Phe ta được xây dựng thành hệ thống thế hệ. Cụ Mết quắc thước như một cây xà nu lớn – hiện thân cho truyền thống thiêng liêng. Tnú, Mai, Dít là lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến hôm nay, nối tiếp xứng đáng  truyền thống anh hùng của dân tộc. Bé Heng là thế hệ tương lai của cách mạng. Riêng anh Quyết tuy xuất hiện ít nhưng có vai trò đặc biệt, đại diện cho Đảng gieo mầm cách mạng cho nhân dân, là linh hồn của cuộc chiến đấu. Các nhân vật đều hút về vấn đề trọng tâm: Vận mệnh dân tộc. Vấn đề này chi phối tính cách nhân vật, tạo nên một đặc điểm thống nhất độc đáo: phẩm chất anh hùng.

Trong quan hệ với chủ đề chính trị của tác phẩm, nhân vật Tnú là kiểu nhân vật tư tưởng. Nhân vật này có đời tư nhưng không được quan sát từ cái nhìn đời tư, vì tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng mà phản ánh đời tư của Tnú. Điều đó phản ánh rõ trong hai chặng đời của Tnú, trước và sau khi đi lực lượng. Ngay từ chặng đầu, Tnú đã xuất hiện trong tính cách anh hùng. Dù còn nhỏ, Tnú sớm tỏ ra gan góc, táo bạo, đầy quả cảm. Mặc cho địch khủng bố dã man (chặt đầu những người nuôi cán bộ), Tnú và Mai vẫn là hai người đi đầu trong việc này. Khi học chữ thua Mai, Tnú tự trừng phạt cái tội chóng quên của mình bằng cách cầm hòn đá tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng – đúng là tư cách anh hùng. Khi địch bắt, tra tấn hỏi cộng sản đâu, Tnú đặt tay lên bụng mà nói: Ở đây này, và lưng Tnú lại hằn thêm những những vết chém của kẻ thù – đúng là tư cách uy vũ bất năng khuất. Với đầy đủ phẩm chất anh hùng đó, lại thêm mối tình thơ mộng với Mai – cô gái Strá xinh đẹp, dịu dàng, Tnú vẫn không bảo vệ được hạnh phúc gia đình đang đẹp như trăng rằm soi trên đỉnh Ngọc Linh. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của mẹ con Mai tràn đầy cảm xúc ấn tượng: Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) Ở chỗ đó hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Căm thù đốt cháy hai con mắt – một chi tiết dữ dội, bi thương. Từ đoạn văn ấy, Nguyễn Trung Thành mượn lời cụ Mết mà ngẫm ngợi: Tnú không cứu được vợ con (…). Tau cũng không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tính triết lí trong tác phẩm là ở chỗ đó: tác giả không phản ánh hiện thực một cách đơn giản, mà suy tư về nó. Chân lí cách mạng là chân lí cuộc sống. Đời Tnú là bằng chứng sống cho quy luật nghiệt ngã đó. Một tất yếu phải đến: Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo. Kết luận như dao chém đá của cụ Mết mở ra một trang mới cho cuộc đời dân làng Xô Man, cho cuộc đời Tnú được đánh dấu bằng cuộc đồng khởi rung chuyển núi rừng: Cả làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Chặng đời cầm vũ khí của Tnú được nối tiếp bằng việc đi lực lượng.

Điều đáng lưu ý ở đây là nhân vật tư tưởng của Nguyễn Trung Thành có sức lôi cuốn không chỉ bởi tính trữ tình, tính hình tượng. Tác giả tạo ra nhân vật bằng cảm hứng lịch sử say mê. Hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh. Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời. Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ do anh Quyết dạy, từng cầm đá đập đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói cộng sản ở đây này, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục Công Tum trở về… Khi giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú, bàn tay thành chứng tích cho tội ác và lòng hận thù. Hận thù khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo: mười ngón đuốc ở bàn tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón, vẫn cầm giáo, cầm súng để lên đường trả hận; và cuối cùng, với chính bàn tay ấy, Tnú đã siết cò vào cổ họng những thằng Dục – với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục.

c)Kết bài:

Như vậy, câu chuyện bi tráng ở cuộc đời một con người mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc, nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành gánh nặng số phận lịch sử. Dù có nhiều dị biệt, Tnú là kiểu nhân vật sánh đôi với các anh hùng trường ca Đăm San, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên.

(Nguyễn Sĩ Bá, Nguyễn Quốc Văn, Nguyễn Quang Trung –

20 bài giảng văn tuyển chọn12  NXB Giáo Dục-1995)

Khách