Cáo bệnh, bảo mọi người (Cáo tật thị chúng)

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
3 coin

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) tên là Lý Trường, người làng An Cách.

- Thuở nhỏ, ông được vào hầu Thái tử Kiền Đức (Lý Nhân Tông sau này), được Thái hậu rất trọng.

- Khi Kiền Đức lên ngôi, ông được ban hiệu Hoài Tín, gọi là Hoài Tín trưởng lão, được mời vào chùa Giáo Nguyên trong cung.

- Mãn Giác là tên thụy do vua ban tặng sau khi ông mất.

2. Tác phẩm

a. Thể loại

- Kệ là thể văn Phật giáo, dùng để truyền bá giáo lý Phật pháp.

- Thường được viết bằng văn vần.

- Nhiều bài kệ có giá trị văn chương như các bài thơ ca.

- Bài kệ của thiền sư Mãn Giác vốn không có nhan đề, tên Cáo tật thị chúng là do người đời sau đặt.

b. Bố cục

- Phần 1: (Bốn câu thơ đầu): Quy luật của tự nhiên và cuộc sống.

- Phần 2: (Hai câu thơ cuối): Quan niệm nhân sinh của tác giả.

II. Đọc - hiểu văn bản

Câu 1

- Hai câu đàu nói lên quy luật hóa sinh của tự nhiên, của con người. Thiên nhiên và con người luôn nằm trong sự vận động, chảy trôi của thời gian. Đây là vòng luân hồi, là quy luật tất yếu của sự sống.

- Nếu đảo ngược câu 2 lên trước thì mặc dù vẫn nói về vòng tuần hoàn nhưng nó sẽ không còn theo chu trình hoa nở, hoa tàn nữa mà nhấn mạnh đến sự ra đời, sự tái sinh nhiều hơn: xuân qua rồi xuân tới, hoa rụng rồi hoa tươi. (Bởi thường vế sau, câu sau trong một bài thường sẽ là ý được nhấn mạnh).

Câu 2:

- Câu 3, 4 trong bài nói về quy luật: sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật.

- Hai câu thơ cho thấy niềm bâng khuâng, tiếc nuối của tác giả trước sự đối lập giữa thời gian của vũ trị (thì vô thủy vô chung) còn thời gian của đời người (thì ngắn ngủi, hữu hạn).

Câu 3:

Trong hai câu thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo ; khi con người đã giác ngộ đạo (hiểu được chân lí và quy luật) thì có sức mạnh lớn lao, vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Theo cách giải thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.

   Trong quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.

Câu 4: Bài kệ cho thấy lòng yêu đời và cái nhìn lạc quan của tác giả:

- Cách mở đầu và kết thúc là một vòng tuần hoàn, lặp lại không hồi kết: hoa nở - hoa toàn - hoa nở. Điểm mút của vòng tuần hoàn là sự sinh sôi, cho thấy thái độ lạc quan, tin tưởng của tác giả vào những quy luật của cuộc sống.

- Sự cảm nhận về cảnh thiên nhiên và quy luật của đời người tràn đầy cảm hứng, tư tưởng của Phật giáo và tinh thần ngộ đạo. Bởi nếu không ngộ đạo, hẳn tác giả vẫn lung lạc bởi sự "tàn lụi", bởi "lão, bệnh, tử". 

- Bài kệ được tác giả viết khi đang đau yếu nhưng qua lời thơ vẫn toát lên sự bình thản, yêu đời và trạng thái khỏe khoắn về tinh thần, sự bản lĩnh và phong thái ung dung tự tại.


Danh sách các phiên bản khác của bài học này. Xem hướng dẫn
Trịnh Long đã đóng góp một phiên bản khác cho bài học này (19 tháng 8 2021 lúc 17:00) 0 lượt thích

Khách