Kiều ở lầu Ngưng Bích- Nguyễn Du

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Akira Yuuki

Viết đoạn văn T-P-H (12 câu) về vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả qua đoạn trích "Kiểu ở lầu Ngưng Bích".

Quốc Đạt
26 tháng 7 2019 lúc 8:14

1. MỞ BÀI
Giới thiệu tác giả và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Giới thiệu đoạn “Buồn trông…”

2. THÂN BÀI

Cặp lục bát 1: phân tích hình ảnh “cửa bể chiều hôm”, “cánh buồm xa xa”: gợi tả nỗi buồn của Kiều. Cặp lục bát 2: phân tính hình ảnh “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi man mác”: gợi tả nỗi mông lung lo lắng của Kiều Cặp lục bát 3: phân tích hình ảnh “nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất”: gợi tả sự vô định của Kiều Cặp lục bát 4: phân tích hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh”, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: sự sợ hãi, hoảng hốt của Kiều

Tổng kết nghệ thuật:

Điệp cấu trúc với đẹp ngữ “buồn trông” Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình Hình ảnh có sự tăng tiến gợi tả sự tăng tiến của cảm xúc


3. KẾT BÀI
Xót thương, cảm thương cho số phận Kiều
Tấm lòng nhân đạo của tác giả

Nguyen
26 tháng 7 2019 lúc 9:39

Tham khảo:

Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" dài 22 câu trích trong "Truyện Kiểu" là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu). Bao biến cô' khủng khiếp đã diễn ra: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha "đầu trâu mặt ngựa" cướp "sạch sành sanh...", phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh - Tú Bà. Sau khi "thất thân" bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:

"Người còn thì cùa hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà...".

Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa "con hãy thong dong” nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời.

Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự. về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thọai để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Sáu câu đầu đoạn là một không gian nghệ thuật và một tâm trạns nghệ thuật đồng hiện. Có "non xa" và "tấm trăng gần": có "cát vàng cồn nọ” và “ bụi hồng dặm kia". Giữa mội thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết "Bổn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác cô đơn. buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với "mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng".

Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả một nỗi niềm, mội nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần - nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”. Kiều sao không khỏi cô dơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:

"Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu”

Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều Tưởng người. Với cha mẹ thì nàng đã “xót người..” mỗi đối tượng Kiều có một nỗi thương nhớ riêng.

Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri. Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ Kiều khắc khoải "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn". Lẩn này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người vêu đau khổ "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới nguôi, mới "phai" được nỗi thương nhớ ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như: "dưới nguyệt chén đồng"tin sương", "rày trông mai chờ, "bên trời góc bể", "tấm son gột rửa..." đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc cảm dộng tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:

"Tường người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Các động từ - vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thọai biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưa", các thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa : "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", đặc biệt hình ảnh mẹ già "tựa cửa hôm mai đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi gốc tử đã vừa người ôm".

Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thọai kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy gương tan" nàng vẫn dành cho "người tình chung” bao tình thương nhớ "muôn vài ái ân". Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương, càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau củ a nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:

"Xát người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ "buồn trông" xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu 6 của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn trông" là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng !‘tê tái: đau thương ,thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duvên số. "Buồn trông" vì càng buồn thì càng trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong 'Truyện Kiều". Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và biến diễn tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai" lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa' đầy ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền "ai " xa lạ, cánh buồm xa xa"thấp thoáng", Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.

Rồi nàng lại "buồn trông" về phía "ngọn nước mới sa", dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi "về đâu", đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:

"Buồn trông ngọn nước mới sa.

Hoa trôi man mác biết là về đâu"

Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai", về hoa trôi biết về đâu . Kiều "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo "rầu rầu" củ a nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc chốn giang hổ:

"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mâymặt đất một mâu xanh xanh".

"Nội cỏ rầu rầu” tàn úa hiện lên giữa màu "xanh xanh" nhạt nhòa của 'chân mây mặt đất" chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình, sắc cỏ "rầu rầu" ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:

"Sè sè nắm đất bên dường,

Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".

Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa "buồn trông" vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào, "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm” của sóng, không phải là sóng reo mà "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây ".xung quanh ghế ngồi". Mội tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phái chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái "nho bé" đáng thương? Kiều "buồn trông" mà lo âu sợ hãi:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ấm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".

Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viển cảnh là con thụyền và cánh buồm xa xa trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cò rầu rầu giữa màu xanh xanh chân mâv mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la , mờ mịt, vừa dữ dội, tất cá như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng, lẻ loi.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắtcó "ma đưa lối, quỷ đem đường", đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi. buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.

Các từ láy: "bát ngát”, "bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng , xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực của đoạn thơ Kiểu ở lầu Ngưng Bích".

✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
26 tháng 7 2019 lúc 9:42

Đoạn văn :

Những câu thơ trên tả vẻ đẹp của Thuý Kiều sau khi ngợi ca vẻ đẹp của Thuý Vân. Từ “càng” nhấn mạnh vẻ “sắc sảo mặn mà” ở Thuý Kiều hơn hẳn Thuý Vân. Vân là em nhưng được nói đến trước thì ra bởi tác giả muốn lấy Vân làm nền cho vẻ đẹp nổi bật của Kiều. “Sắc sảo” và “mặn mà” đều có tác dụng vừa gợi tả nhan sắc, vừa gợi tả tính cách, tài trí. Nhắc đến nét đẹp của mĩ nhân xưa, ta thường nghĩ đến vẻ liễu yếu đào tơ tha thướt. Bởi vậy, sự "sắc sảo mặn mà" của Thuý Kiều hẳn là điều đặc biệt. Sử dụng hai từ láy đầy sức gợi "sắc sảo", "mặn mà" tác giả như muốn khắc sâu vào tâm trí người đọc vẻ đẹp nổi bật "khác thường" này của người con gái Vương Thuý Kiều. Nhan sắc của nàng được gợi tả bằng các hình ảnh mang tính ước lệ: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Việc gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt “làn thu thuỷ" ý chỉ đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, gợi vẻ lanh lợi, sắc sảo hơn người. Nhưng làn nước mùa thu cũng gợi những thoáng buồn u ẩn nên điều đó còn thể hiện một tâm hồn tinh tế, có phần đa mang. Trong câu thơ “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, khác với Thuý Vân, chúng lại báo trước một cuộc đời dông bão bị ghen ghét, đố kị, vùi dập của nhân vật Thúy Kiều.

Thảo Phương
26 tháng 7 2019 lúc 20:31

1. Cảnh thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích

- Không gian: rộng lớn với “non xa”, “trăng gần” ⇒ sự bát ngát của không gian càng làm cho con người trở nên cô đơn, lẻ loi.

- Từ “xa trông”: biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi.

- Không gian, vũ trụ bao la.

- Từ “khóa xuân”: Kiều ý thức được mình không còn trẻ tuổi, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xa.

2. Tâm trạng của Thúy Kiều trước không gian bát ngát, mênh mông.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

- Từ láy “bẽ bàng”: sự hổ thẹn, sự tự vấn, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều.

3. Nỗi nhớ của Kiều khi đứng trước lầu Ngưng Bích

- Kiều nhớ tới Kim Trọng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

+ Chữ “tưởng”: hồi tưởng, nhớ lại

+ Nhớ lại đêm thề nguyền dưới trăng: “chén đồng” – chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Thúy Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng.

+ Nhớ về Kim Trọng nên đau đớn hình dung ở Liêu Dương cách trở, xa xôi, chàng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn đang mong chờ tin tức và Kiều cảm thấy có lỗi:

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

+ Động từ “gột rửa”: diễn tả tấm lòng thủy chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được.

⇒ Nỗi nhớ người yêu da diết, đau đáu.

4. Nỗi nhớ cha mẹ

- Nếu nhớ đến Kim Trọng, Kiều “tưởng” thì nhớ đến cha mẹ nàng lại “xót”.

- Kiều xót khi cha mẹ già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con.

- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “Sân Lai”: nói lên tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

- Nhớ về cha mẹ, Kiều tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, cha mẹ không ai chăm sóc, đỡ đần lúc về già.

- Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: vừa nói về thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật.

- Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục “Nhớ ơn chín chữ cao sâu”.

⇒ Kiều là một con người hiếu thảo, thủy chung, vị tha, luôn nghĩ cho người khác trước khi nghĩ cho mình.

- Lí giải: Kiều nhớ đến người yêu trước khi nhớ đến Kim Trọng

+ Khi đặt chung giữa hai chữ tình và hiếu, Kiều đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha, Kiều đã phẩn nào đền đáp được công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng, trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng rất nhiều vào Kiều. Nhưng giờ đây, tấm thân của Kiều đã hoen ố, nên nàng càng ân hận và day dứt hơn.

+ Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí.

⇒ Thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Du.

⇒ Kiều hiện lên là một người con gái thủy chung, hiếu thảo và đầy lòng vị tha.

5. Kiều quay về với thực tại

- Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa qua điệp từ “buồn trông”.

- Mỗi cảnh vật đều mang những tâm trạng, sự khắc khoải riêng.

- Kiều càng lúc càng chìm đắm trong nỗi buồn của riêng mình.

- “Ầm ầm”: như dự báo những biến cố sẽ ập xuống đời Kiều sắp diễn ra.

* Nghệ thuật lấy cảnh làm nền cho con người đã làm toát lên nỗi cô đơn, vô vọng của Kiều trước vận mệnh của chính mình.


Các câu hỏi tương tự
Lê Quỳnhanh
Xem chi tiết
trung kiên
Xem chi tiết
AThư
Xem chi tiết
Laura
Xem chi tiết
trần minh khôi
Xem chi tiết
ngly
Xem chi tiết
Hương Giang
Xem chi tiết
Phạm Trịnh Phương Thảo
Xem chi tiết
Lê Ngọc Hiển
Xem chi tiết