Trăng đã in đậm trong hồn thơ Lí Bạch. Thi tiên đã có ngót trăm bài thơ trăng với cảm hứng lãng mạn dạt dào. Trong đó, bài thơ “Tĩnh dạ tứ” là một tuyệt tác để làm giàu, làm đẹp thêm cho đề tài “vọng nguyệt hoài hương”:
“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.”
Câu thơ đầu nhắc trăng, trăng đã đánh thức người trong đêm thanh tĩnh. Nhân vật trữ tình rất có thể là chưa ngủ, hoặc ngủ rồi mà tỉnh dậy, không ngủ lại được nữa. Trong trạng thái mơ màng ấy, sự nghi ngờ là phù hợp. Nằm trên giường mà thao thức không ngủ được, ánh trăng sáng trắng, huyền ảo, ngỡ như mặt đất phủ sương trời nên thức giấc. Một nét vẽ gợi lên sự lành lạnh, cô đơn. Đó là tâm trạng khắc khoải, trăn trở, thao thức của kẻ tha hương. Đến hai câu cuối thì nỗi nhớ quê trào dâng, cử chỉ cũng thêm bối rối. Cảnh vật và tâm trạng đan xen, hòa quyện. Tác giả sử dụng phép đối rất đắc địa ở hai câu thơ này. Sự sóng đôi này chính là cấu tứ của bài thơ: cảnh - tình (trăng - quê hương). Cảnh gợi tình, trăng gợi nhớ quê, con người chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm vào tâm hồn. Tóm lại, với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện, bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh. Một hồn thơ thanh cao, cô đơn mà nồng hậu, thắm thiết.