Văn bản ngữ văn 10

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nguyễn Thị Hồng Ngọc

Vẻ đẹp bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão

Huỳnh lê thảo vy
21 tháng 12 2018 lúc 12:39

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó.
Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.
Phiên âm chữ Hán:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu.
(Bùi Văn Nguyên dịch)
Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông.
Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.
Loading... Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.
Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.
Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là : Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình.
Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh VỚI Vũ hầu.
Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ CÕI.
Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Thời Sênh
21 tháng 12 2018 lúc 14:06

Viết văn, làm thơ là một cách để người nghệ sĩ giãi bày nỗi lòng của mình. Nhưng giãi bày làm sao để mỗi câu văn,
lời thơ đó không trở thành nghị luận bắt thành văn, đấy mới là cái tài của người nghệ sĩ. Phạm Ngũ Lão chỉ tỏ lòng
bằng bốn câu thất ngôn Đường luật nhưng người đọc bao thế hệ vẫn cảm nhận thật rõ vẻ đẹp trong từng con chữ
của bài thơ:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu:

Cũng như Ngôn hoài (Không Lộ Thiền sư), Cảm hoài (Đặng Dung), Thuật hoài (Tỏ lòng) thuộc loại thơ trữ tình “ngôn
chí” khá phổ biến trong thơ ca trung đại, bày tỏ những ý nghĩ, tình cảm lớn của tác giả (thuật là kể, bày tỏ, hoài là nỗi
lòng). Đây chính là mấu chốt của cái hay, cái đẹp trong bài thợ của vị tướng giỏi thời Trần. Bằng một số thủ pháp
nghệ thuật độc đáo, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện nhân cách cao đẹp của người anh hùng thông qua nỗi lòng được giãi
bày. vẻ đẹp của bài thơ được kết đọng ở sự hoà quyện giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp nghệ thuật trong nó.
Đọc bài thơ, dẫu chỉ lần đầu tiên, bất cứ ai cũng có thể cảm nhận khá rõ về tâm sự của tác giả. Ớ hai câu thơ đầu,
tâm sự đó là niềm tự hào của một vị tướng về đội quân dũng mãnh:
Hoành sóc giang sơn khớp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Và ở hai câu sau, tâm sự đó là nỗi thẹn làm nên nhân cách và khát vọng được công hiến suốt cuộc đời của vị tướng:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Niềm tự hào về đội quân của mình trước hết được Phạm Ngũ Lão thể hiện cụ thể qua việc khắc hoạ tư thế hoành
sóc (cầm ngang ngọn giáo). “Cầm ngang ngọn giáo” khác hẳn với “múa giáo” và hơn hẳn tư thế “múa giáo” ở sự hiên
ngang, lẫm liệt, vững chãi, ở tư thế chủ động, sẵn sàng trấn giữ, bảo vệ non sông. Cây trường giáo này không chỉ
được đặt trong không gian rộng lớn (giang sơn) mà còn như đo suốt thời gian bất tận (khắp kỉ thu). Hành động kì vĩ đó
chắc chắn phải thuộc về con người có tầm vóc lớn lao. Không xuất hiện trực tiếp nhưng hình tượng con người như
át cả vũ trụ bao la. vẻ đẹp của bài thơ trước hết nằm ở chính sự lồng lộng của hình tượng ấy.
Xuất hiện trong câu thơ thứ hai không chỉ là ngọn giáo và ẩn sau nó là hình tượng con người của thời đại nữa. Đó là
hình ảnh của cả một đội quân với khí thế dũng mãnh sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ một khi chúng ồ ạt tràn tới.
Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất của ba quân vừa hướng tới sự khái quát hoá sức
mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A. Câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ bởi sự kết hợp giữa hình ảnh
khách quan và cảm nhận chủ quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tam quân là hình ảnh nói về quân đội nhà Trần
nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho sức mạnh của cả dân tộc.
Nhận thức về sức mạnh củạ con người và sức mạnh của quân đội của Phạm Ngũ Lão thể hiện niềm tự hằo khôn
xiết về sức mạnh của dân tộc trong thời đại. Càng tự hào về sức mạnh đó bao nhiêu, Phạm Ngũ Lão càng khao khát
được phụng sự đất nước, phụng sự dân tộc bấy nhiêu.
Như bao trang nam tử trong thời phong kiến, Phạm Ngũ Lão cũng mang trong mình một “chí làm trai”. Ông muốn
lập công, lập danh. Thực tế, khi bài thơ này được hoàn thành, Phạm Ngũ Lão đã trở thành vị tướng giỏi của nhà
Trần, đã lập được rất nhiều công trạng cho triều đình. Thế nhưng, dường như ông. chưa thoả lòng với những gì
mình đã làm được, ông vẫn thấy mình chưa trọn công danh, vẫn thấy món nợ công danh của mình còn đó. Suy nghĩ
này cho thấy khát vọng được công hiến hết mình cho triều đại nhà Trần, cho dân tộc. Đây là khát vọng của con
người có ý thức, trách nhiệm với non sông đất nước. Và càng khao khát bao nhiêu, con người ấy càng cảm thấy
“thẹn” bấy nhiêu khi tự so sánh mình với Vũ hầu (Gia Cát Lượng).

Chúng ta đều biết Gia Cát Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị, là người xuất chúng, siêu phàm về mưu lược, trên thông thiên văn, dưới tường địa lí. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chưa có được tài năng lớn, chưa có được nhiều công lao lớn như Khổng Minh. Tự so mình với người đời trước để rồi tự hổ, tự “thẹn”, tự thừa nhận mình còn kém cỏi – đó không phải là điều ai cũng tự làm được. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn làm ngời sáng lên nhân cách con người. Nó không làm ông nhỏ bé mà càng tôn cao hơn nhân cách đó. Nó đốt lên trong lòng người ngọn lửa của khát vọng vươn tới cái cao cả, lớn lao., Từ phương diện nội dung, có thể thấy, bài thơ tứ tuyệt vẻn vẹn hai mươi tám chữ nhưng đã nói lên được hào khí Đông A với sức mạnh của quân đội thời Trần, thể hiện được cả chí và tâm, cả tài năng và nhân cách của Phạm Ngũ Lão. Chính tâm hồn, khí huyết ấy của vị tướng võ đã truyền cho mỗi dòng thơ, mỗi con chữ khí phách hào hùng của cả một thời đại. Cảm nhận vẻ đẹp toàn bích trong bài thơ Tỏ lòng không thể bỏ qua những đặc sắc về nghệ thuật của nó. Phạm Ngũ Lão đã chọn thể thơ thất ngôn tứ tuyệt luật đường, từ ngữ cô đọng súc tích mà hình ảnh lại có sức gợi tả mạnh mẽ, sức truyền cảm lớn. Thủ pháp nghệ thuật hoành tráng được dùng để diễn tả nỗi lòng của tác giả. Mật độ các hình thái kì vĩ dường như dày đặc trong hai câu đầu: con người kì vĩ, không gian kì vĩ, thời gian kì vĩ. Phạm Ngũ Lão viết Tỏ lòng để giãi bày tâm sự, ý chí, khí phách của mình. Nhưng qua bài thơ, cảm nhận vẻ đẹp trong từng con chữ, chúng ta đã được tri âm với một nhân cách lớn, một nghệ sĩtài năng


Các câu hỏi tương tự
Lê Thanh Phương
Xem chi tiết
Đặng Nguyệt
Xem chi tiết
Em Vân
Xem chi tiết
namblue
Xem chi tiết
Kiên NT
Xem chi tiết
Shino Asada
Xem chi tiết
hoàng thị ngọc ánh
Xem chi tiết
Lương Thị Cẩm Nhung
Xem chi tiết
Hoa Hồng Xanh
Xem chi tiết