I. Mở bài
– Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ được nhiều nhân vật tiêu biểu, đáng nhớ. Nhưng một trong những nhân vật đáng yêu, đáng nhớ nhất là Thuý Kiều.
– Thuý Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du. Thuý Kiều không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn là một cô gái có tâm hồn cao đẹp, có đời sống nội tâm phong phú.
– Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã chứng tỏ nàng là một cô gái có tình yêu thuỷ chung trong sáng, một người con hiếu thảo tận tình.
II. Thân bài
1. ở lầu Ngưng Bích, Thuý Kiều phải sống trong một hoàn cảnh éo le, cô đơn rất tội nghiệp.
a. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, Thuý Kiều đau đớn, tủi nhục tìm đến cái chết. Tú Bà sợ mất "cả vốn lẫn lời" vội khuyên can, vờ hứa hẹn sẽ gả nàng cho một người tử tế. Mụ đưa Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng, tìm mưu thâm độc buộc nàng phải tiếp khách.
b. Thuý Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Cảnh non xa, trăng gần gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích cao ngất nghểu, chơ vơ giữa một vùng trời đất. Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Thuý Kiều sống ở đó, sớm làm bạn với trời mây, đêm làm bạn với ngọn đèn, thui thủi một mình một bóng.
2. Trong hoàn cảnh éo le càng thấy rõ tấm lòng thuỷ chung trong sáng của Kiều.
– Những tưởng sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị làm nhục, bị ép uống làmcông việc dơ bẩn, Thuý Kiều chỉ còn đủ sức nghĩ đến nỗi đau khố của riêng mình. Nhưng vượt lên trên nỗi riêng, Thuý Kiều nhớ tới Kim Trọng với một nỗi nhớ thương, day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nàng và Kim Trọng đã cùng thề nguyền gắn bó rồi chính nàng đã phải phụ lời nguyền, phụ chàng. Nàng xót xa nghĩ, giờ này chắc hẳn Kim Trọng vẫn đang chờ mong tin tức của nàng, đâu biết rằng nàng đã phải bán mình vàonơi hang hùm miệng rắn, một mình bơ vơ nơi góc biển chân trời. Chàng đâu biết, tình yêu son sắt, trắng trong mà nàng thề trao tặng, gắn bó trọn đời với chàng đã bị lũ buôn thịt bán người dập vùi hoen ố. Trước lúc chia tay, Kim Trọng gửi gắm, dặn dò:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Nàng đã hứa hẹn. Nhưng nàng đã không có cách gì để giữ vẹn lời thề. Giờ đây, nàng đau đớn nghĩ, vết nhơ bẩn ấy biết đến bao giờ gột rửa cho sạch mà còn mong xứng đáng với chàng? Nàng day dứt, tự hỗ thẹn vì đã phụ tình yêu, niềm tin, lòng mong mỏi, sự gửi gắm của chàng. Thấu hiểu tâm sự ấy, tấm lòng ấy của Kiều, trong màn đoàn viên, Nguyễn Du đã mượn lời Kim Trọng để thuyết phục Kiều. Rằng, Kiều đã lấy hiếu làm trinh, hành động của Kiều đã vượt qua sự khắt khe của lễ giáo đương thời để làm nên một quan niệm mới, giá trị mới của chữ "trinh":
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến, có khi thường…
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay.
Gặp gia biến, Kiều phải bán mình chuộc cha rồi bị đày đoạ vào nơi sóng gió phũ phàng. Nhưng tận đáy lòng, nàng luôn tự giày vò mình vì đã không giữ được tình yêu chung thuỷ. Chi tiết đó đã là bằng chứng hùng hồn nhất cho tấm lòng thuỷ chung trong trắng của Kiều, dù mai đây, cuộc đời nàng mỗi ngày lại bị nhấn sâu vào vũng lầy nhơ nhớp.
3. Không chỉ thuỷ chung trong sáng, Kiều còn là một người con hiếu thảo, nhân hậu.
Bị đoạ đày về cả thể xác lẫn tinh thần, nhưng trong lòng Kiều rưng rưng nỗi thương cha nhớ mẹ. Nàng xót thương vô hạn khi hình dung ra cảnh sáng sáng, chiều chiều cha mẹ nàng tựa cửa trông ngóng tin con trong vô vọng. Nàng xót xa khi cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được ở bên chăm sóc, đỡ đần. Nàng băn khoăn tự hỏi, không biết giờ đây cha mẹ ai đang chăm sóc. Ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ nằm? Nàng xa nhà đến nay đã mấy mùa mưa nắng, quê hương chắc đã nhiều thay đổi. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà nàng thì bơ vơ lưu lạc xứ người. Nàng đau đớn khi nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.
Trong cảnh ngộ hiện tại, Kiều là người đau khổ nhất, đáng thương, đáng được quan tâm nhất. Nhưng nàng đã quên nỗi khổ của bản thân để nhớ thương, lo nghĩ cho Kim Trọng, cho cha mẹ. Kiều không chỉ là một cô gái có tình yêu chung thuỷ, tâm hồn trong sáng mà còn là một người con hiếu thảo, một con người có tấm lòng nhân hậu, vị tha đáng trọng.
c. Kết bài
– Tình yêu thuỷ chung, tâm hồn trong trắng là nét bản chất trong tính cách của Kiều. Nhân hậu, vị tha, hiếu thảo tận tâm cũng là một nét tính cách cơ bản của Kiều. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cho chúng ta một bài học về sự hi sinh cao thượng vì tình yêu, vì những người thân thiết mà ta yêu ta quý.
– Nhân vật Thuý Kiều sống mãi cùng với tên tuổi của Nguyễn Du không chỉ vì tài sắc mà chính vì tâm hồn và phẩm cách đẹp đẽ.
Kim Liên khóc nức nở trong xe. Nghe tiếng khóc, chàng tiến lại hỏi han ân cần:
– Ai than khóc trong xe vậy?
Kim Liên đáp:
– Cô con chúng tôi là người lương thiện, gặp kẻ hung đồ, may có công tử ra tay cứu giúp. Đa tạ ơn công tử cứu mạng.
Nghe vậy, chàng đáp:
– Ta đã trừ bọn lâu la rồi, giờ thì không còn sợ gì nữa. Nhưng khoan, nàng đừng ra, nànglà phận gái ra ngoài không tiện. Chẳng hay tên nàng là gì, nàng là con gái nhà ai, thân liễu yếu đào tơ sao đi đâu dặm trường vắng vẻ thế này?
Tôi nghẹn ngào trong nước mắt:
– Thưa công tử, tiện thiếp tên Kiều Nguyệt Nga, còn đây là đầy tớ tên Kim Liên. Quê thiếp ở tận Tây Xuyên, cha thiếp làm tri phủ Hà Khê. Cha cho gọi thiếp qua đó để yên bề gia thất. Làm phận con đâu dám trái lời cha mẹ. Chẳng may giữa đường gặp nạn, may được công tử giải nguy. Nếu không trinh tiết, phẩm giá gìn giữ một đời cũng đã bỏ đi rồi.
Nói rồi, tôi sửa soạn khăn áo thưa tiếp:
– Mời công tử ngồi tạm trước xe để cho tiện thiếp được lạy tạ tỏ lòng biết ơn người cứu nạn. Thiếp chẳng biết làm thế nào cho phải, ở đây, gặp gỡ giữa đường chẳng có bạc vàng, gấm vóc, may sao, Hà Khê cũng không xa lắm, xin chàng theo thiếp về bên đó để thiếp được dịp trả ơn chàng.
Chàng cười nói:
– Nàng chớ bận tâm làm gì. Ta làm ơn đâu phải để trông chờ trả ơn. Là đấng nam nhi, thấy việc nghĩa không làm thì đâu còn xứng mặt!
Nói xong, chàng cáo biệt. Tôi vẫn chưa biết tên chàng, ơn này bao giờ trả được?
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác phẩm và đoạn trích:
+ Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới nhiều thế hệ sau.
+ Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều.
II. Thân bài:
– Giới thiệu qua về hoàn cảnh của Thúy Kiều vì đâu mà nàng lại có mặt tại lầu Ngưng Bích này.
– Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thành công.
– Đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
– Phân tích hai từ “khóa xuân” hai từ này đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc chua chát.
Thúy Kiều sắc nước hương trời
– Không gian càng mênh mông tăm tối, mịt mù càng làm cho tâm trạng Thúy Kiều trở nên thê lương bi đát hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm hồn, lẫn thể xác.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
– Hai từ “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô vừa bị Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh.
– “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật đã thật sự hòa nhập vào làm một. Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc khoải…
– Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đưa nhịp bài thơ nhanh hơn, chuyển hướng tâm trạng của Thúy Kiều hồi tưởng lại những ngày xưa bình yên hạnh phúc.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
– Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi nhớ về Kim Trọng mối tình đầu của nàng trong sự ê chề, bẽ bàng, tủi nhục này người nàng nhớ về đầu tiên chính là chàng Kim Trọng, nhớ người đã thề hẹn ước nguyện với nàng.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
– Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Nàng nghĩ về những người sinh thành ra mình, cảm thấy xót xa.
– Tâm trạng của Thúy Kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
– Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
– Câu thơ nói lên sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều. Nó nói lên sự phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua:
“Buồn trông song cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
III. Kết bài
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán.
– Phân tích bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một.