Văn mẫu lớp 7

Trần Song Vy

Uống nước nhớ nguồn là 1 truyền thống tốt đẹp của ông cha ta ngày xưa.Ngày nay chúng ta vẫn phát huy truyền thống đó bằng nhiều hành động việc làm cụ thể.Hãy viết 1 đoạn văn ngắn nói về những hành động đó

Jatsumin
10 tháng 3 2018 lúc 16:55

Lòng nhớ ơn, biết ơn là một tình cảm rất đẹp. Câu tục ngữ giáo dục chúng ta lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước. Đó là tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Đó là những người anh hùng vĩ đại đã đem mồ hồi xương máu xây dựng và bảo vệ đất nước. Bát cơm ta ăn, mái nhà ta ở, trang sách, ngọn đèn, ngoi trường soi sáng tâm hồn ta… đã thấm sâu công ơn hàng triệu người dân cày, người thợ, thầy giáo, cô giáo… Đất nước được độc lập thanh bình, lá quốc kì đỏ thắm tung bay trên bầu trời độc lập là do xương máu của biết bao anh hùng liệt sĩ. Những con người không tên đã giành lại được giang sơn gấm vóc cho dân tộc Việt Nam ta. Giang sơn gấm vóc hôm nay là do nguồn thiêng ông cha.

Một con người khi sinh ra, lớn lên và trưởng thành luôn có những tấm lòng, những hành động mà phải nhớ ơn. Trước hết là cha mẹ. Cha mẹ là người không chỉ có công ơn sinh thành trời bể mà còn là những năm thắng nhọc nhằn nuôi nấng. Những đêm mưa lạnh mẹ ôm con ngủ, những ngày nắng gió cha đưa con tới trường. Biết bao sự nhọc nhằn mà cha mẹ đã phải trải qua để chúng ta lớn lên, thành người. Cha mẹ nuôi con bằng tình thương. Từng ngày tùng ngày cha mẹ chẳng quản ngại khó khăn gian khổ mà nuôi nấng chúng ta. Đối với cha mẹ, con cái luôn là một niềm hi vọng và ước mơ. Bởi thế mà công ơn trời bể ấy, dù bạn có dành hết phần đời của mình cũng chưa chắc đã trả hết được. Rồi đến trường học, thầy cô chính là người có công ơn thứ hai. Thầy cô là người truyền tụng kiến thức, tri thức nhân ***** chúng ta. Để chúng ta có thể phát triển toàn diệ cả về mặt nhân cách lẫn trí tuệ, thf thầy cô chính là một phần ấy. Không phủ nhận những tấm gương tự học, nhưng đó chỉ là con số rất ít. Thầy cô luôn là bến đò của tri thức, là người có công ơn dạy dỗ chúng ta thành công hơn trong cuộc sống. Rồi tiếp nữa là cấp trên của ta tại nơi làm việc. Họ sẽ là những người cho ta những bài học thực tế, kinh nghiệm trong công việc. Và còn nhiều rất nhiều những người khác nữa. Nhưng gần gũi với chúng ta nhất chính là họ. Bởi công lao của họ đối với ta là to lớn vì thế mà ta không được rũ bỏ nó. Nếu rũ bỏ nó, phủ nhận nó, thì bạn sẽ không phải là một con người đúng nghĩa con người. Đã có người từng nói, "Nếu sống mà rũ bỏ quá khứ là không có trái tim". Vì vậy, bạn hãy tự nhủ lòng mình phải nhớ ơn những người đã có công lao to lớn không gì thay thế được. Bởi đó là cách sống, đạo lý làm người ngẫu nhiên và tất nhiên mà một con người cần phải có.

"Uống nước nhớ nguồn" là đạo lý sống biết bao đời nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó vẫn sẽ đúng và mãi đúng cho đến ngàn đời sau. Bởi giá trị của nó không đơn thuần là một tác phẩm văn học mà còn là đạo lý làm người.

Bình luận (0)
Bích Ngọc Huỳnh
10 tháng 3 2018 lúc 17:02

Tục ngữ là một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian, được xem là túi khôn của nhân loại, bời vì đó là những bài học trí tuệ sâu sắc của người xưa được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn. Chúng ta có thế tìm thấy ở đấy những kinh nghiệm sống trong thực tế và những bài học về luân lý đạo đức. Ngay từ xa xưa, cha ông ta vẫn thường nhắc nhở thế hệ đi sau phải có tình cảm trân trọng biết ơn đối với những người đã tạo dựng thành quả cho mình. Lời khuyên nhủ ấy được gởi gắm trong câu tục ngữ giàu hình ảnh:

"Uống nước nhớ nguồn"

Chúng ta có suy nghĩ như thế nào khi đọc lời khuyên dạy của tiền nhân? "Nguồn" là nơi xuất phát của dòng nước, mạch nước từ núi, từ rừng ra suối, ra sông rồi đổ ra biển cả mênh mông, không bao giờ cạn. Thứ nước khởi thủy đó trong mát, tinh khiết nhất. Khi ta uống dòng nước làm vơi đi cơn khát thì phải biết suy ngẫm đến nơi phát xuất dòng nước ấy. Từ hình ảnh cụ thể như vậy, người xưa còn muốn đề cập đến một vấn đề khái quát hơn."Nguồn" có thể được hiểu chính là những người đã tạo ra thành quả về vật chất, tinh thần cho xã hội. Còn "uống nước" đó chính là sử dụng, đón nhận thành quả ấy. Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn những người đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống.

Thật vậy, trong cuộc sống, không có hiện tượng nào là không có nguồn gốc, không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên, tất cả mọi thành quả đều phần lớn do công sức lao động của con người làm ra. Ta không thể tự tạo mọi thứ từ đôi tay,khối óc của mình cho nên ta phái nghĩ đến những ai đã tạo ra nó. Mặt khác, người tạo ra thành quả phải đổ mồ hôi công sức, thậm chí phải chịu phần mất mát hy sinh. Trong khi đó người thụ hưởng thì không bỏ ra công sức nào cả,vì lẽ đó chúng ta phải biết ơn họ. Đó là sự công bằng trong xã hội.

Hơn nữa, lòng biết ơn sẽ giúp ta gắn bó với cha anh, với tập thể tạo ra một xã hội thân ái, kết đoàn. Cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao nêu truyền thống ấy được lưu giữ và xem trọng. Con người sống ân nghĩa sẽ được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh.

Ngược lại, thiếu tình cảm biết ơn, sống phụ nghĩa quên công, con người trở nên ích kỉ, vô trách nhiệm, những kẻ ấy sẽ bị ngưòi đời chê trách, mỉa mai, bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm của chính họ sẽ kết tội.

Bên cạnh đó, ta thấy "Uống nước nhớ nguồn" còn là đạo lí của dân tộc, là lẽ sống tốt đẹp từ bao đời nay cho nên thế hệ đi sau cần kế thừa và phát huy. Bài học đạo đức làm người ấy cứ trở đi trở lại trong kho tàng văn học dân gian: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Uống nước nhớ người đào giếng", "Đường mòn ân nghĩa chẳng mòn", "Ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm"...

Thật đáng chê trách cho những ai còn đi ngược lại với lẽ sống cao thượng ấy. Sống dưới mái ấm gia đình, có những người con vẫn chưa cảm nhận hết công sức của đấng sinh thành, họ thản nhiên tiêu xài hoang phí những đồng tiền phải đánh đối bằng những giọt mồ hôi, nước mắt của cha mẹ, thậm chí còn có kẻ đã ngược đãi với cả những người đã tạo dựng ra mình. Dưới mái học đường, nhiều học sinh vẫn còn xao lãng với chuyện học hành. Đó là gì, nếu không phải là vô ơn với thầy cô? Trong xã hội cũng không ít kẻ "uống nước" nhưng đã quên mất "nguồn".

Câu tục ngữ là lời khuyên nhủ chân tình: con người sống phải có đạo đức nhân nghĩa, thủy chung, vừa là lời ca ngợi truyền thống đạo lí lâu đời của dân tộc Việt. Nó còn là hồi chuông cảnh tỉnh đối với ai đã đối xử một cách vô ơn bạc nghĩa với những người đã tạo ra thành quả cho mình hưởng thụ. Học tập câu tục ngữ này, cụ thể là phải biết ơn, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả những gì mà người khác tạo dựng. Là một người con trước hết ta phải biết khắc ghi công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, còn là một người học sinh, biết ơn công ơn dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự giúp dỡ của tập thể lớp, trường. Sống trong cuộc đời, ta phải biết khắc ghi công ơn những ai đã cưu mang, giúp đỡ mình khi gặp hoạn nạn khó khăn. Suy rộng ra là con cháu vua Hùng, thuộc dòng dõi Lạc Hồng, ta phải biết tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Thừa hưởng cuộc sống tự do, thanh bình phải biết khắc ghi công ơn của các anh hùng liệt sĩ, khi "bưng bát cơm đầy", ta phải cảm hiểu "muôn phần đắng cay" của những người nông dân... Không chỉ biết ơn đối với những lớp người đi trước, ta còn phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá khứ đã tạo nên bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu, tiếp tục phát triển các thành quả của quá khứ. Nói như Bác: "Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong tương lai, hãy đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh đó chính là cách "trả ơn" quý báu nhất.

Đồng thời còn phải biết đấu tranh chống lại những biểu hiện vô ơn "ăn cháo đá bát", có thế xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Mỗi con người sẽ sống chan hòa với nhau bằng những tình cảm chân thành hơn.

Qua việc sử dụng câu tục ngữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh cụ thể mà ý nghĩa thật vô cùng sâu sắc, người xưa đã khuyên nhủ thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn những ai đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống để từ đó khéo léo nhắc nhở, cảnh tinh những kẻ còn có lối sống bất nghĩa vô ơn. Mặc dù trái qua bao thâm trầm của thời đại, ý nghĩa câu tục ngữ trên vẫn sống mãi với thời gian...Đọc lại lời dạy của tổ tiên, ta không khỏi tự nhủ với lòng mình. Không bao giờ trở thành kẻ sống thiếu trách nhiệm đối với xã hội, sống và làm việc xứng đáng với đạo lí và truyền thống dân tộc, sống chân thành trọn nghĩa trọn tình, có trước có sau.



Bình luận (0)
Hoàng Thị Anh Thư
10 tháng 3 2018 lúc 16:57

Trong cuộc sống, đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện sự văn minh, lịch sự, nếp sống, tính cách, và phần nào có thể đánh giá được phẩm chất, giá trị bản thân con người. Và có rất nhiều mặt để đánh giá đạo đức, phẩm chất của con người. Một trong số đó là sự biết ơn, nhớ ghi công lao mà người khác đã giúp đỡ mình. Đó cũng là một chân lí thiết thức trong đời thường. Chính vì vậy ông cha ta có câu : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ nguồn” .
Cả hai câu tục ngữ trên đều mang một triết lí nhân văn sâu sa. Đó là cần phải biết ơn những người đã mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chúng ta.
Câu đầu tiên mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” ý muốn nói, khi được hưởng thụ những trái ngọt, trái thơm, cần nhớ tới công sức, mồ hôi nước mắt của người đã làm ra nó. Điều đó được ẩn dụ nhằm khuyên răn thái độ của mỗi con người xử sự sao cho đúng, cho phải đối với những người đã giúp đỡ mình để không phải hổ thẹn với lương tâm. Hành động đó đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp, một lối ứng xử đúng đắn. Lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ xưa tới nay. Đó cũng chính là biết sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung sâu sắc giữa con người với con người. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có. Đó chính là công sức của biết bao lớp người. Từ những bát cơm dẻo tinh trên tay cũng do bàn tay người nông dân làm ra, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi mà. Rồi đến tấm áo ta mặc, chiếc giày ta đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó. Những di sản văn hoá nghệ thuật, những thành tựu độc đáo sáng tạo để lại cho con cháu. Còn nhiều, rất nhiều những công trình vĩ đại nữa mà thế hệ trước đã làm nên nhằm mục đích phục vụ thế hệ sau. Tất cả, tất cả cũng chỉ là những công sức lớn lao, sự tâm huyết của mỗi người dồn lại đã tạo nên một thành quả thật đáng khâm phục để ngày nay chúng ta cần biết ơn, phục hồi, tu dưỡng, phát triển những di sản đó. Những lòng biết ơn, kính trọng không phải chỉ là lời nói mà còn cần hành động để có thể thể hiện được hết ân nghĩa của ta. Đó chính là bài học thiết thực về đạo lí mà mỗi con người cần phải có.
Đến câu tục ngữ thứ hai “Uống nước nhớ nguồn”. Cũng giống câu tục ngữ thứ nhất. Câu tục ngữ này đều mang ý ẩn dụ dưới hình thức cụ thể, sinh động. Nước chính là thứ chúng ta hưởng thụ còn nguồn chính là người tạo ra cái để chúng ta hưởng thụ đó. Câu tục ngữ này chỉ vẻn vẹn có bốn chữ mà ý tứ sâu xa ẩn dưới cấu trúc mô hình điều kiện, hệ quả. Nói đến nước trong nguồn là nói đến sự mát mẻ, thanh tao. Và nguồn nước sẽ mãi không bao giờ vơi cạn. Chữ “nhớ” trong câu là một từ quan trọng, tâm điểm của câu tục ngữ. Ý nghĩa câu tục ngữ này thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Lòng nhớ ơn luôn mang một tình cảm cao đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc cho chúng ta có những năm tháng sống vui sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự độc lập. Có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng vàng, một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Đó là những cử chỉ cao đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng. Những người có nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà không chút tính toan do dự. Chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người , rồi thế giới này sẽ mãi là một thế giới giàu cảm xúc.
Tóm lại hai câu tục ngữ trên giúp ta hiểu được về đạo lí làm người. Lòng tôn kính, sự biết ơn không thể thiếu trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Chúng ta luôn phải trau dồi những phẩm chất cao quý đó, hãy biết rèn luyện, phấn đấu bằng những hành động nhỏ nhất vì nó không tự có trong mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn những người đã có công dẫn dắt ta trong cuộc sống nhất là đối với những người trực tiếp giúp đỡ chỉ bảo ta như cha mẹ, thầy cô. Bài học đó sẽ mãi là một kinh nghiệm sống ẩn chứa trong hai câu tục ngữ trên và nó có vai trò, tác dụng rất lớn đối với cuộc sống trên hành tinh này.

Bình luận (2)
Bích Ngọc Huỳnh
10 tháng 3 2018 lúc 17:03
Ngày 27/7 hàng năm là dịp để chúng ta ôn lại những truyền thống tốt đẹp, chăm lo tới đời sống vật chất, tinh thần của các thương binh liệt sĩ và người có công.

LTS: Nhân dịp kỉ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ, Đại tá Đặng Việt Thủy tiếp tục gửi đến Báo điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết thể hiện sự tri ân, lòng thành kính của mình tới các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.

Dân tộc ta từ xưa đến nay luôn giữ gìn và phát huy truyền thống, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn". Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhớ công ơn, lập đền thờ các anh hùng, những người có công dựng làng, dựng nước, những người đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tiếp nối truyền thống đó, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người hướng về các chiến sĩ đang chiến đấu ở mọi mặt trận, dành những gì tốt đẹp nhất cho họ. Người đánh giá cao những hy sinh, chịu đưng chịu đựng của các chiến sĩ nơi chiến trường.

'Uống nước nhớ nguồn' - truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta - Ảnh 1

Hình ảnh thắp nến tri ân các anh hùng cách mạng tại nghĩa trang liệt sĩ. (Ảnh: Uongnuocnhonguon.vn)

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu lên quan điểm về người có công với cách mạng. Trong thư gửi các chiến sĩ Nam Bộ, Người viết: "Từ 3 tháng nay, các anh, chị em đã đem xương máu ra để giữ gìn từng tấc đất của Tổ quốc... Đã bao nhiêu lần phấn khởi nghe những chiến công oanh liệt do những vị vô danh và hữu danh anh hùng của dân tộc tạo nên, đã bao nhiêu lần hồi hộp cảm động trước những gương hy sinh vô cùng dũng cảm của những người con yêu của Tổ quốc".

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đầu tiên nói đến khái niệm thương binh. Theo Người, thương binh là các chiến sĩ đã "hy sinh xương máu để giữ gìn Tổ quốc" mà bị thương, Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con ưu tú như thế.

Trong bức thư gửi Ban thường trực của ban tổ chức "Ngày thương binh toàn quốc" tháng 7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

"Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh.

Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy".

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, quân và dân ta giành và bảo vệ được quyền độc lập, tự do trong cho đất nước, song, những mất mát cũng vô cùng to lớn, hơn một triệu đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh một cách vẻ vang. Tổ quốc đã ghi công, nhân dân ta đời đời biết ơn và tưởng nhớ.

Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nhà nước ta đã chỉ đạo việc quy tập mộ liệt sĩ và xây dựng nghĩa trang liệt sĩ ở các tỉnh miền Bắc, chủ yếu được tiến hành bằng ngân sách địa phương, của các ngành và của nhân dân.

Từ sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), công việc này được xúc tiến mạnh mẽ. Cùng với hệ thống nghĩa trang liệt sĩ các chiến dịch, nghĩa trang liệt sĩ do huyện, tỉnh quản lý, nghĩa trang liệt sĩ làm nhiệm vụ quốc tế... Các công trình tưởng niệm được hình thành là hàng nghìn nhà bia ghi tên liệt sĩ được xây dựng ở xã, phường, huyện nguyên quán của liệt sĩ.

Thể hiện trách nhiệm và tình nghĩa thủy chung đối với những người đã khuất, các cấp ủy và chính quyền, các đơn vị quân đội và nhân dân các địa phương đã vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm, đóng góp công sức bảo vệ thi hài, gìn giữ phần mộ cũng như tham gia việc tìm kiếm cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, tu sửa nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm và bia ghi công liệt sĩ.

Nhiều tổ công tác đặc biệt của quân đội, các địa phương, nhiều người đã nghỉ hưu vẫn cùng đồng đội trở lại vùng căn cứ, chiến trường nước bạn, vùng núi cao rừng sâu, chịu đựng nhiều khó khăn vất vả để tìm hài cốt liệt sĩ (có cựu chiến binh đã góp sức tìm được 2.000 hài cốt liệt sĩ). Ở một số vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã bỏ tập tục kiêng cữ để tham gia công việc tình nghĩa này.

Đến nay, một hệ thống công trình tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã được hình thành trong cả nước. Trong đó, có nhiều công trình đã trở thành những trung tâm văn hóa lịch sử quen thuộc với cả nước như:

“Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đài tưởng niệm Anh hùng liệt sĩ (Thủ đô Hà Nội), Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9 (tỉnh Quảng Trị), Nghĩa trang liệt sĩ Hàng Dương, Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam), Nghĩa trang liệt sĩ Ngã ba Đồng Lộc (tỉnh Hà Tĩnh), Nghĩa trang liệt sĩ Dốc Bà Đắc (tỉnh An Giang), Nghĩa trang liệt sĩ Anh Sơn (tỉnh Nghệ An), Nghĩa trang liệt sĩ Đồng Tháng, Đền thờ liệt sĩ Bến Dược, Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh), Nhà bia tưởng niệm Kon Tum, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên (tỉnh Hà Giang)...”.

Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên): ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, Nhà nước đã chỉ đạo việc quy tập mộ liệt sĩ và xây dựng Nghĩa trang Điện Biên Phủ ở cả ba khu vực:

- Nghĩa trang liệt sĩ A1 (nằm ngay cạnh đồi A1), an táng 644 mộ. Ở Nghĩa trang A1 có mộ 4 Anh hùng - liệt sĩ là: Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Trần Can, Phan Đình Giót.
- Nghĩa trang liệt sĩ Him Lam, an táng 896 mộ.
- Nghĩa trang liệt sĩ đồi Độc Lập, an táng 2.432 mộ.

Số liệt sĩ hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ bao gồm nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Số liệt sĩ ghi tên trên bảng chữ đồng gồm: Thanh Hóa: 750 liệt sĩ, Hải Dương: 680 liệt sĩ, Nghệ An: 640 liệt sĩ, Hà Tĩnh: 390 liệt sĩ, Hải Phòng: 184 liệt sĩ, Vĩnh Phú (cũ): 450 liệt sĩ...

Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn (Quảng Trị): cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi. Tuyến vận tải quân sự chiến lược đường Hồ Chí Minh đã góp phần to vào chiến thắng trong cuộc kháng chiến của nước ta.

Trong đó có công lao của cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh anh dũng trên các nẻo đường Trường Sơn. Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn đặt tại xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, có diện tích 40 ha, chia thành 5 khu vực với 10.264 phần mộ và một khu tượng đài.

- Khu 1: an táng phần mộ liệt sĩ đại diện cho 3 miền Bắc - Trung - Nam, gồm: Hà Nội, Quảng Bình, Quảng Trị, một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
- Khu 2: an táng phần mộ liệt sĩ các tỉnh Hà Tây (cũ), Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình.
- Khu 3: an táng phần mộ liệt sĩ các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh.
- Khu 4: an táng phần mộ liệt sĩ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh.
- Khu 5: an táng phần mộ liệt sĩ các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai.

Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9 (Quảng Trị): tọa lạc trên vùng đồi cách thành phố Đông Hà tỉnh Quảng Trị gần 6 cây số, mặt hướng về quốc lộ 9 là nơi yên nghỉ và ghi công của hơn 1 vạn liệt sĩ đã hy sinh trên đất Quảng Trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phần lớn liệt sĩ thuộc các sư đoàn: 304, 308, 312, 320, 324, 968...

Nghĩa trang liệt sĩ Hàng Dương, Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu): ngày 28/11/1861, thực dân Pháp đánh chiếm Côn Đảo, thiết lập nhà tù đầu tiên ở xứ Đông Dương (1/2/1862) để đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 3/1955, nhà tù Côn Đảo được bàn giao cho chính quyền Sài Gòn.

Trên thế gian này, hiếm có nhà tù nào lại được thiết kế nhiều khu kỹ thuật như Côn Đảo. Đó là những "nhà tù trong nhà tù", "địa ngục trong địa ngục", 20 hầm đá, 14 xà lim, 31 gian biệt lập chuồng bò, 120 gian chuồng hổ Pháp, 384 gian chuồng hổ Mỹ và rất nhiều gian chuồng hổ để giam giữ những người tù trong tay không một vũ khí.

Nghĩa trang liệt sĩ Hàng Dương có hàng nghìn nấm mộ trên sườn đồi, dưới lòng thung lũng và cả dưới chân đồi phía Sở Ruộng. Cách mộ chị Võ Thị Sáu không xa là ngôi mộ tập thể 5 chiến sĩ kiên cường chống ly khai hy sinh trong trận khủng bố ngày 27/3/1961.

Mỗi khu mộ ở Nghĩa trang Hàng Dương không chỉ là một số phận bi hùng, một chứng tích tội ác của thực dân, đế quốc mà còn âm vang những trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng trong tù...

Khu A có mộ của hai nhà yêu nước Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn, mộ đồng chí Lê Hồng Phong và hàng nghìn chiến sĩ cách mạng bị bắt trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940). Nghĩa trang Hàng Dương được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt.

Nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam): tọa lạc bên quốc lộ 1 với diện tích 3,5 ha, thuộc thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng, quê hương của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi và Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ có 9 con trai, 1 con rể, 1 cháu ngoại là liệt sĩ.

Nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn: có gần 5.000 mộ liệt sĩ, trong đó có 11 mộ Anh hùng lực lượng vũ trang quê ở huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, 1/5 là cán bộ, chiến sĩ quê miền Bắc, phần lớn là Thanh Hóa, Hải Phòng. Nghĩa trang được đánh giá là quy mô nhất của tỉnh Quảng Nam và khu vực miền Trung.

Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên (tỉnh Hà Giang): ở thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, cách thành phố Hà Giang tỉnh Hà Giang 18 cây số. Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên là nơi yên nghỉ của 1.746 liệt sĩ. Trong đó có 264 phần mộ liệt sĩ chưa biết tên đến từ 33 tỉnh, thành phố trên cả nước. Họ là những chàng trai vừa mới mười tám, đôi mươi đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược (huyện Củ Chi - thành phố Hồ Chí Minh): đây là ngôi đền thờ liệt sĩ lớn nhất nước ta hiện nay. Đền Bến Dược được khởi công xây dựng ngày 19/5/1993 với quy mô mặt bằng 7 ha, khánh thành vào ngày 19/12/1995. Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định chọn ngày 19/12 hàng năm là ngày lễ hội tưởng niệm và tri ân các anh hùng, liệt sĩ tại đền Bến Dược.

Đền Bến Dược có các hạng mục: Cổng tam quan, Nhà văn bia, Đền chính, Tháp, Hoa viên. Đền Bến Dược có quy mô rất lớn nhưng dường như không thể quy tụ hết các liệt sĩ đã hy sinh trên mảnh đất Sài Gòn - Gia Định anh hùng. Đến nay, trong đền thờ chính đã khắc tên gần 50.000 liệt sĩ trên 632 tấm đá hoa cương, có trên 34.000 liệt sĩ của thành phố Hồ Chí Minh.

Bài văn bia tại đền Bến Dược do nhà thơ Viễn Phương viết, có đoạn kết:
"... Máu hồng tỏa hương chính khí.
Nhân kiệt làm nên địa linh.
Đất nước lớn vì nhân dân anh hùng,
Nhân dân lớn vì tấm lòng yêu nước.
Người đang sống nhớ thương người đã khuất.
Khắc đá làm bia dựng giữa đất trời,
Những anh liệt như ngàn sao tỏa sáng,
Đời đời sao chiếu mãi giữa tim người".

Bên cạnh những nghĩa trang và đền tưởng niệm liệt sĩ nói trên, ở khắp các địa phương trên cả nước ta đều có các nghĩa trang liệt sĩ cũng như đài tưởng niệm để tri ân các anh hùng, liệt sĩ như:

“Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Pleiku (tỉnh Gia Lai) an táng gần 3.000 liệt sĩ thuộc các đơn vị Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3 và các tỉnh Gia Lai, Kon Tum; Nghĩa trang liệt sĩ Buôn Ma Thuột an táng gần 2.000 liệt sĩ (chủ yếu hy sinh trong chiến dịch Tây Nguyên tháng 3/1975); Nhà bia tưởng niệm Kon Tum (tỉnh Kon Tum) tưởng niệm hơn 10.000 cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên.

Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Tháp an táng 3.067 liệt sĩ thuộc nhiều tỉnh, thành trong cả nước; Đài tưởng niệm các liệt sĩ giao bưu thông tin liên lạc Tây Nguyên, đặt tại đèo Hà Lan (huyện Cư M'gar, tỉnh Đắc Lắc); Đài tưởng niệm nhà lao Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang); Đền thờ liệt sĩ huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định).

Nghĩa trang liệt sĩ Việt - Lào (đặt tại huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An) an táng 8.708 liệt sĩ hầu hết là quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên nước bạn Lào; Nghĩa trang liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Cam pu chia (đặt ở xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) an táng 4.236 liệt sĩ (trong đó chống Pháp: 11 liệt sĩ, chống Mỹ: 638 liệt sĩ, chiến tranh biên giới Tây Nam: 3.587 liệt sĩ, thuộc 61 tỉnh, thành trong cả nước).

Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc, khu mộ 10 nữ anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong ở khu di tích lịch sử quốc gia Ngã ba Đồng Lộc (huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh); Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ ngành Giao thông vận tải (gần Ngã ba Đồng Lộc); Nghĩa trang thanh niên xung phong ở xã Vạn Ninh (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình); Nghĩa trang liệt sĩ Tông Khao (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) an táng liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Lào; Khu di tích lịch sử Truông Bồn (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An)... cùng hàng vạn các nghĩa trang liệt sĩ ở các xã, huyện, tỉnh...

Kể từ ngày 17/12/1994 đến nay, để ghi nhớ công lao to lớn của các Bà mẹ Việt Nam đã có nhiều cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc, phát huy và giáo dục truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước và đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta, Nhà nước Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho hơn 5 vạn bà mẹ trong cả nước.

Trong đó, có những mẹ được phong tặng hai danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Đã có hàng vạn Bà mẹ Việt Nam anh hùng được các cơ quan, đoàn thể và nhân dân nhận phụng dưỡng suốt đời. Hàng vạn "ngôi nhà tình nghĩa" đã được các tổ chức và cá nhân trao tặng cho các thương binh và gia đình liệt sĩ.

Tưởng nhớ, tri ân những người có công với nước là thể hiện sâu sắc đạo lý "Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", "Ăn quả nhớ người trồng cây" một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Ngày 27/7 hàng năm là một dịp để mỗi chúng ta ôn lại những truyền thống tốt đẹp, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Bình luận (1)
Thảo Phương
10 tháng 3 2018 lúc 17:59

Ông cha ta từ xa xưa có câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn” đó chính là một lời khuyên nhủ cho con cháu thế hệ sau phải biết sống những người đã giúp đỡ mình. Không phải tự nhiên mà chúng ta có được cuộc sống ấm no, đầy đủ như hiện tại. Đó là thành quả của nhiều người đã vất vả làm nên như bố mẹ và thầy cô. Bố mẹ không quản khó khăn, cúc nhọc kiếm tiền nuôi dưỡng chúng ta nên người. Thầy cô ngày ngày đứng trên bục giảng, tận tâm truyền đạt kiến thức tới học sinh…. Là “người uống nước” của ngày hôm nay, chúng ta cần có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được trở nên ngày một đơm hoa kết trái. Trong gia đình, chúng ta cần làm tròn bổn phận là một người con. Ở trường, bản thân cần phải là một học sinh gương mẫu, nỗ lực học tập để không phụ công ơn giảng dạy của thầy cô, chăm lo nuôi dưỡng của bố mẹ.

Bình luận (0)
Thảo Phương
10 tháng 3 2018 lúc 18:04
Truyền thống uống nước nhờ nguồn là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Mỗi người trong chúng ta cần phải giữ gìn, phát huy mạnh mẽ tinh thần đó. Đây là truyền thống thể hiện sự kính trọng của thế hệ đi sau với thế hệ đi trước để tỏ lòng biết ơn của mình với những người có ơn với mình. Hằng năm, cứ mỗi dịp kỉ niệm ngày thương binh liệt lĩ, đảng và nhà nước lại tổ chức các hoạt động viếng thăm mộ liệt sĩ, thăm hỏi gia đình liệt sĩ, tặng quà, tạo điều kiện cho gia đình phát triển. Hiện nay, mọi người trong xã hội đã chú ý hơn đến việc này, không chỉ các cơ quan chính quyền địa phương tổ chức các hoạt động này mà những đơn vị, tổ chức cá nhân cũng tham gia rất tích cực. Mọi người chung tay nhau, quyên góp, sau đó tổ chức các hoạt động thăm hỏi từng gia đình một, trao quà tặng thưởng. Tuy những món quà đó chưa hẳn đã có nhiều giá trị về vật chất nhưng lại đầy ắp tinh thần của người trao. Đây là các việc làm rất ý nghĩa, cần được mọi người phát huy, giữ gìn để truyền thống uống nước nhớ nguồn mãi được những dân tộc khác tôn trọng và học hỏi.
Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
ng thành
Xem chi tiết
ng thành
Xem chi tiết
Bùi Anh Thư
Xem chi tiết
Elizabeth
Xem chi tiết
Nguyên Mộng Mơ
Xem chi tiết
Nguyễn Thế Kỳ
Xem chi tiết
Son Goku
Xem chi tiết
Lan Anh
Xem chi tiết
Bích Nguyễn
Xem chi tiết