ể chuyện Hồ Chí Minh, đọc thơ văn của Người và thơ văn viết về Người ở đất nước ta, đối với mỗi người Việt Nam, dường như đã trở thành một nếp sống, một thói quen văn hoá thú vị đáng tự hào. Ở sách Ngữ văn 7, chúng ta đã được học bài Đức tính giản dị của Bác Hồ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – một chiến sĩ cách mạng, một nhà văn hoá lớn, từng được sống làm việc nhiều năm bên Người. Giờ đây, mở đầu sách Ngữ văn 9, chúng ta lại được học một văn bản nữa của Lê Anh Trà – một nhà khoa học thuộc thế hệ con cháu Hồ Chí Minh. Lần theo từ ngữ, câu văn, bắt đầu từ nhan đề đến dòng cuối cùng của văn bản, chúng ta lại được cùng nhau khám phá "Chuyện Bác Hồ", thú vị và bổ ích biết bao. Hình tượng nổi bật hiện lên từ bài Phong cách Hồ Chí Minh phải chăng là một nhân cách Việt Nam hài hoà vẻ đẹp của nền vãn hoá Việt Nam mang truyền thống lâu đời với nển văn hoá thế giới hiện đại ?
Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết là ở vốn tri thức văn hoá nhân loại mà Người đã tích luỹ được. Ông Lê Anh Trà kể : "Trên những con tàu vượt trùng dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ,… đã từng sống dài ngày ở Pháp, ở Anh…". Hổ Chí Minh đã từng đi khắp năm châu bốn biển, lao động kiếm sống và học tập khắp mọi nơi trên trái đất, tiếp xúc với đủ mọi dân tộc, mọi chủng tộc của các màu da vàng, đen, trắng, đỏ… nhờ đó, "Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc: Pháp, Anh, Hoa, Nga,…". Đi nhiều, tiếp xúc nhiều, biết nhiều ngoại ngữ, đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ để mở mang hiểu biết, thu lượm tri thức. Dường như Hồ Chí Minh đã thấu hiểu quy luật ấy nên "Đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu vãn hoá, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Học hỏi, tìm hiểu để tiếp thu những cái hay, cái đẹp, đồng thời Người biết "phê phán những tiêu cực". Cách đi, cách sống và cách học tập như vậy thật đúng đắn, mang tính khoa học cao. Người đã kể một kỉ niệm trong thời kì tìm hiểu, học tập về lí tưởng cách mạng của mình rằng : "Tôi tham gia Đảng xã hội Pháp… Còn như Đảng là gì…, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu… Tôi dự rất nhiều các cuộc họp một tuẩn hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như vậy ?… Điều mà tôi muốn biết hơn cả là… vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa ? Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên… Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa… Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động,… Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ tôi chỉ ngồi nghe người ta nói ; tôi cảm thấy người nào cũng có lí cả, tôi không phân biệt được ai đúng và ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi… Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ tôi mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường "của tôi"… Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ…" . Tuy câu chuyện chỉ là một trong muôn vàn kỉ niệm của cuộc đời cách mạng Hồ Chí Minh nhưng vẫn đủ cho chúng ta thấu hiểu một phong cách sống và học tập năng động, hết mình vì cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, dân tộc mình và tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nhờ đi nhiều nơi, hăng hái tích cực, thường xuyên tìm tòi, học hỏi, tranh luận, sống sôi nổi, hết mình, vừa nghiên cứu lí luận, vừa làm công tác thực tế, Người đã tích luỹ được một vốn tri thức sâu rộng. Sau vài ba sự việc được kể tóm tắt, nhằm gợi cho người đọc liên tưởng và suy ngẫm về tầm hiểu biết và cách tích luỹ vốn tri thức, tác giả Lê Anh Trà bình luận : "điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất yiệt Nam, một lối sống rất bình dị… đồng thời rất mới, rất hiện đại". Đi nhiều nơi, học hỏi, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay của nhiều nền văn hoá thế giới không phải chỉ để cho riêng mình mà đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc mình, dân tộc mình, đó là cách sống của Hồ Chí Minh. Chính vì biết cống hiến tất cả cho một lí tưởng cao đẹp như thế, nên Hồ Chí Minh đã trở thành một người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất của thời đại, một nhân cách Việt Nam mang truyền thống phương Đông, đồng thời rất mới, rất hiện đại.
Phong cách Hồ Chí Minh rút trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị của Lê Anh Trà in trong cuốn sách Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam năm 1990.
Luận điểm thứ nhất mà người viết nêu lên là tầm sâu rộng vốn tri thức văn hóa của Hồ Chí Minh. Do đâu mà có vốn tri thức văn hóa ấy? Hồ Chí Minh có một cuộc sống phong phú, sôi nổi. Người "đã tiếp xúc” với văn hóa nhiều nước ở phương Đông và phương Tây. Người "đã ghé lại" nhiều hải cảng, "đã thăm "các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người "đã sống dài ngày" ở Anh, ở Pháp. Lúc làm bồi, lúc cuốc tuyết, lúc làm nghề rửa ảnh... Chế Lan Viên cũng đã có lần viết:
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể,
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi.
(Người đi tìm hình của nước)
Người "nói và viết thạo" nhiều ngoại ngữ như Pháp, Anh, Hoa, Nga... Không phải là lắm tiền đi du lịch... mà trái lại cuộc đời Người "đầy truân chuyên", Người "đã làm nhiều nghề", và đặc biệt là "đến đâu Người cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm". Hồ Chí Minh "đã tiếp thu" mọi cái hay cái đẹp của các nền văn hóa, và "đã nhào nặn" tới cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình, nên đã trở thành "một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”. Cách lập luận chặt chẽ, cách nêu luận cứ xác đáng, lối diễn đạt tinh tế của Lê Anh Trà đã tạo nên sức thuyết phục lớn.
Luận điểm thứ hai mà tác giả đưa ra là lối sống rất bình dị, rất phương Đông, rất Việt Nam của Hồ Chí Minh. Lê Anh Trà đã sử dụng 3 luận cứ (nơi ở, trang phục, cách ăn mặc) để giải thích và chứng minh cho luận điểm này. Cái "cung điện "của vị Chủ tịch nước là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để "tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ nghỉ” đồ đạc "rất mộc mạc, đơn sơ". Trang phục của Người "hết sức giản dị” với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp "thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn”. Cách ăn uống của Hồ Chí Minh "rất đạm bạc": cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa..., đó là "những món ăn dân tộc không chút cầu kì". Những luận cứ mà người viết nêu ra không có gì mới. Nhiều người đã nói, đã viết, nhiều hồi kí đã kể lại mà ta đã biết. Nhưng Lê Anh Trà đã viết một cách giản dị, thân mật, trân trọng và ngợi ca.
Phần còn lại, tác giả đã bình luận phong cách Hồ Chí Minh. So sánh với cuộc sống của một vị lãnh tụ, một vị tổng thống, một vị vua hiền..., rồi ông ngạc nhiên khẳng định Hồ Chí Minh đã "sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy". Lê Anh Trà "bất giác nghĩ đến", liên tưởng đến Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích dẫn hai câu thơ của Trạng Trình: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá - Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" để đi tới ca ngợi nếp sống giản dị và thanh đạm của Hồ Chí Minh, của các vị danh nho không phải là "tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời mà là "lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc, thanh cao cho tâm hồn và thể xác
Tóm lại, Lê Anh Trà đã lập luận một cách chặt chẽ, nêu lên những luận cứ xác thực, chọn lọc, trình bày khúc chiết với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ, ngợi ca "Nhà văn hóa lớn, nhà đạo đức lớn, nhà cách mạng lớn, nhà chính trị lớn đã quyện chặt với nhau trong con người Hồ Chí Minh, một con người rất giản dị, một con người Việt Nam gần gũi với mọi người".
Đọc bài viết của Lê Anh Trà, chúng ta học tập được bao điều tốt đẹp về phong cách HỒ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa và hội nhập với quốc tế thì việc học tập phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng và có tính thời sự. Chúng ta cần phải thực hiện tốt quan điểm hội nhập chứ không hòa tan. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải đứng trên quan điểm coi trọng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trên cơ sở tinh hoa văn hóa Việt Nam để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Lấy tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tinh hoa văn hóa Việt Nam. Đây là việc làm không phải dễ dàng, nhất là trong thời đại những thành tựu của khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, con người có thể tiếp thu nhiều tri thức, tìm hiểu nhiều nền văn hóa qua nhiều hình thức khác nhau mà không nhất thiết phải đặt chân đến vùng đất ấy. Vì thế bài học trong “Phong cách Hồ Chí Minh” là một tấm gương về phương diện này. Việc học tập phong cách Hồ Chí Minh sẽ giúp cho thế hệ trẻ có được bài học sinh động về việc kết hợp tiếp thu văn hóa nhân loại với giữ gìn bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc.
-Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa hội nhập với thế giới,một ván đề đc đặt ra và cần giải quyết tốt,đó là tiếp thu tinh hoa Văn Há,văn minh của nhân loại,của thế giới,dồng thời giữ gìn và pát huy bản sắc văn hóa dân tộc.Đó là 1 nhiệm vụ to lớn và kg dễ dàng.Phong cách HCM là 1 tấm gương sẽ giúp cho mn,đặc bt là thế hệ trẻ có đc 1 bài học sinh động về việc kết hợp tinh hoa văn hóa thế giới với bản sắc văn hóa dân tộc
-Em nhận thức đc thế nào là lối sống có văn hóa,thế nào là mốt,thế nào là hiện đại trong ăn mặc,nói nắng và vân vân
Ở giới trẻ ngày nay, đã có một bộ phân biệt hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và đồng thời cũng vẫn còn tồn tại một bộ phận khác đang tiếp thu văn hóa nhân loại này một cách thụ động, không có chọn lọc và coi đó là " mốt thời thượng". Đầu tiên là từ những cái dễ thấy nhất như cách đi đứng, ăn mặc, nói năng và trang phục. Xu hướng chung của giới trẻ ngày nay là bắt chước, học theo phim nước ngoài, học theo các diễn viên, ca sĩ, thần tượng nổi tiếng. Những mái tóc nhuộm đầy màu sắc, những bộ quần áo ngắn cũn cỡn, rách te tua, những câu nói lẫn lộn giữa Tiếng Anh và Tiếng Việt... là biểu hiện của sự ăn chơi, đua đòi, là thứ văn hóa phù phiếm và nó cũng đã thể hiện việc quay lưng với bản sắc văn hóa dân tộc. Và một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cách quan niệm, cách suy nghĩ cũng như lối sống của giới trẻ ngày nay. Họ cho rằng những nét văn hóa, bản sắc dân tộc là sự cũ kĩ, cổ hủ, lạc hậu,... Khi tiếp xúc với những công dân trẻ tuổi, ta thường thấy dấu ấn của bản sắc văn hóa Việt Nam rất lu mờ nhưng đậm nét lại là một thứ văn hóa ngoại lai hỗn tạp. Nhưng đó cũng chỉ là nguyên nhân khách quan, là do sự tác động của môi trường sống mà thôi; còn nguyên nhân chủ quan lại là do ý thức của thế hệ trẻ ngày nay. Họ không quan tâm nhiều đến bản sắc văn hóa dân tộc, họ không hiểu và cũng không cần hiểu bản sắc văn hóa dân tộc là gì. Bản sắc văn hóa dân tộc là linh hồn, là gương mặt riêng của mỗi dân tộc nếu như ta đánh mất nó thì chúng ta chỉ là con số không ở giữa nhân loại. Vậy cần phải làm gì để thực hiện điều đó? Trước hết là sự tự giác ý thức của mọi người để thấy được giá trị của văn hóa dân tộc. Sau đó là sự giúp đỡ của gia đình, xã hội làm cho những nét văn hóa đó được tô đậm trong sự trà trộn phức tạp của các luồng văn hóa khác. Mặc dù chúng ta phải giữ gìn những nét văn hóa dân tộc nhưng không có nghĩa là ta loại bỏ những nền văn hóa khác. Chúng ta cần phải học hỏi một cách chủ động, có chọn lọc, tiếp thu những cái tinh hoa văn hóa của nhân loại để hình thành một nền văn hóa Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại, đa dạng mà vẫn đảm bảo được yêu cầu " hòa nhập nhưng không hòa tan" trong xã hội mới. Vì vậy, thực hiện điều này là trọng trách của mọi công dân. mỗi thanh thiếu niên ngày nay. Là học sinh, em đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc tiếp thu văn hóa nhân loại đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Em sẽ nỗ lực cố gắng để khiến những nét văn hóa truyền thống của dân tộc ta ngày càng được tô đậm và được toàn thế giới biết đến.