I. Nước Mĩ từ năm 1945 đến năm 1973
1. Sự phát triển kinh tế
- Sau Chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ.
- Khoảng 20 năm sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới.
- Nguyên nhân:
+ Lãnh thổ Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, trình độ kĩ thuật cao, năng động, sáng tạo.
+ Mĩ lợi dụng chiến tranh để làm giàu, thu lợi nhuận từ buôn bán vũ khí.
+ Mĩ áp dụng thành tựu khoa học - kĩ thuật để nâng cao năng suất lao động.
+ Các tổ hợp công nghiệp - quân sự, các công ti, tập đoàn tư bản lũng đoạn Mĩ có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và có hiệu quả trong và ngoài nước.
+ Các chính sách và biện pháp điều tiết của Nhà nước đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển.
2. Về khoa học - kĩ thuật
- Là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
- Là một trong những nước đi đầu trong các lĩnh vực chế tạo công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động), vật liệu mới (pôlime, vật liệu tổng hợp); năng lượng mới (năng lượng nguyên tử, nhiệt hạch); chinh phục vũ trụ (đưa người lên Mặt trăng năm 1969), và đi đầu cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp v.v...
3. Về chính trị - xã hội
- Từ 1945 đến đầu những năm 70, nước Mĩ đã trải qua năm đời tổng thống (từ H.Truman đến R.Níchxơn), mỗi tổng thống đều đưa ra một chương trình cải cách những vấn đề xã hội.
- Mĩ thực hiện chính sách đối nội nhằm ngăn chặn, đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân và các lực lượng tiến bộ.
- Xã hội Mĩ không ổn định, nhiều mâu thuẫn xã hội nảy sinh. Cuộc đấu tranh của nhân dân Mĩ diễn ra dưới nhiều hình thức.
- Về đối ngoại, Mĩ triển khai chiến lược toàn cầu với tham vọng làm bá chủ thế giới. Mặc dù các chiến lược cụ thể mang những tên gọi khác nhau, nhưng chiến lược toàn cầu của Mĩ nhằm thực hiện ba mục tiêu chủ yếu:
+ Ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
+ Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế.
+ Khống chế, chi phối các nước tư bản đồng minh phụ thuộc vào Mĩ.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, chính sách cơ bản của Mĩ là dựa vào sức mạnh, trước hết là sức mạnh quân sự và kinh tế để khống chế các nước.
II. Nước Mĩ từ năm 1973 đến năm 1991
- Năm 1973, do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, kinh tế Mĩ lâm vào một cuộc khủng hoảng và suy thoái, kéo dài tới năm 1982.
- Từ năm 1983 trở đi, kinh tế Mĩ phục hồi và phát triển trở lại, nhưng cũng chỉ ở tốc độ trung bình so với Tây Âu và Nhật Bản. Tuy vẫn là nước đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế - tài chính, nhưng tỉ trọng của kinh tế Mĩ giảm sút nhiều so với trước.
- Với Hiệp định Pari (1973) về Việt Nam, Mĩ rút quân về nước, các chính quyền Mĩ tiếp tục triển khai “chiến lược toàn cầu”, thực hiện sự đối đầu với Liên Xô thông qua cuộc Chiến tranh lạnh.
- Từ giữa những năm 80, Mĩ - Xô thực hiện chính sách đối thoại và hoà hoãn. Đến tháng 12 - 1989, Mĩ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh, mở ra thời kì mới trên trường quốc tế.
III. Nước Mĩ từ năm 1991 đến năm 2000
- Trong suốt thập kỉ 90, kinh tế Mĩ vẫn đứng đầu thế giới.
- Khoa học - kĩ thuật của Mĩ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
- Về chính trị và đối ngoại, trong thập kỉ 90, chính quyền B.Clintơn theo đuổi ba mục tiêu cơ bản của chiến lược “Cam kết và mở rộng”. Đó là:
+ Bảo đảm an ninh của Mĩ với lực lượng quân sự mạnh, sẵn sàng chiến đấu.
+ Tăng cường khôi phục và phát triển tính năng động và sức mạnh của nền kinh tế Mĩ
+ Sử dụng khẩu hiệu “Thúc đẩy dân chủ” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
- Sau khi Chiến tranh lạnh kế thúc (1989), trật tự hai cực Ianta tan rã (1991), Mĩ tìm cách vươn lên chi phối, lãnh đạo thế giới. Tuy nhiên thế giới không bao giờ chấp nhận, vụ khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 đã chứng tỏ điều đó.