Văn bản ngữ văn 7

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Hàn Minh Nguyệt

Tình và cảnh trong bài thơ ''Qua Đèo Ngang''

B.Thị Anh Thơ
10 tháng 7 2019 lúc 7:28

Bước vào làng văn học Việt Nam ta bắt gặp một nữ sĩ với những vần thơ trang nhã cổ điển, ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua Đèo Ngang và Chiều hôm nhớ nhà. Cả hai bài thơ này được làm theo thể thơ Đường luật mầu mực, phong vị cổ điển, lời ít ý nhiều. Chính nhờ điều này mà hai bài thơ sông mãi với thời gian.

Thi pháp cổ điển ấy chính là văn chương bác học, dùng nhiều điển cố, điển tích, ngôn ngữ thơ điêu luyện, chắt lọc... Trong hai bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện rõ vấn đề này.

Trước hết, điểm nổi bật trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ tinh tế mà đượm buồn. Cả hai bài thơ ta đều bắt gặp một khung cảnh gợi buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày. Cảnh Đèo Ngang trong lúc xế bóng vắng vẻ hoang sơ:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

(Qua Đèo Ngang)

Còn trời chiều trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà:

Trời chiều băng lảng bóng hoàng hôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Đối diện với khung cảnh này thì những người hời hợt lắm cũng phải buồn chứ không nói gì đến người giàu cảm xúc như nữ sĩ.

Nếu như trong bài Qua Đèo Ngang tín hiệu nghệ thuật đầu tiên mà tác giả sử dụng là bóng xế tà thì bài thơ Chiều hôm nhớ nhà cũng đồng thời là bóng hoàng hôn. Thơ xưa khi nói về tâm sự, nỗi buồn người ta thường mượn cảnh đế ký thác đặc biệt là hình ảnh bóng chiều. Bác Hồ của chúng ta sau này đã từng thể hiện thành công hình ảnh chiều tà thể hiện sự vất vả và ý chí, nghị lực của người tù

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không...

(Chiều tối)

Buổi chiều gợi cho ta cảm giác nhớ nhà, nhớ gia đình người thân. Đặc biệt đây lại là tâm trạng của kẻ lữ thứ xa quê, trên đỉnh đèo Ngang chỉ có:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa thì ở Chiều hôm nhớ nhà cũng hoang vắng đến lạnh lùng:

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Đây là âm thanh rõ nhất khiến ta cảm giác đầy đủ nhất. Ta nghe thấy tiêng ốc nhưng lại xa đưa, lúc khoan lúc nhặt nghe thật buồn tẻ. Cái âm thanh đó chỉ làm sâu hơn nỗi buồn của nhà thơ.

Cả hai bài thơ tác giả chỉ thấy cuộn lên một nỗi buồn, nỗi buồn sâu thẳm mênh mông. .

Xa chốn kinh kỳ ồn ã náo nhiệt vào làm quan ở Huế, lòng nữ sĩ có bao nỗi buồn chất chứa. Kinh thành Thăng Long nơi bà từng sông nó khác hẳn với cuộc sống nơi này - đèo Ngang.

Hình ảnh con người trong hai bài thơ này chỉ thoáng bóng. Đó chính là những người dân lao động nghèo vất vả, lam lũ. Cuộc sống của họ thật tẻ nhạt, đơn sơ

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

(Qua Đèo Ngang)

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Thủ pháp nghệ đảo ngữ nhuần nhị tạo nên một hình ảnh thưa thớt, vắng vẻ của cuộc sống con người nơi đây. Vài chú tiều phu đốn củi lom khom, lác đác mấy ngôi nhà chợ thưa thớt, cô tịch, đìu hiu. Hai câu thực trong bài Qua Đèo Ngang đối nhau rất chỉnh, tạo sự hài hoà và phô rõ cuộc sống của con người nơi Đèo Ngang. Đèo Ngang lúc này hoàng hôn đã buông xuống, mọi hoạt động của con người cũng lắng xuống, không còn sự ồn ào, xao động của thời điểm trước đó. Vì vậy Bà Huyện Thanh Quan không thể vui vẻ, càng không thể hững hờ trước cảnh buồn man mác đó.

Nhưng nỗi niềm u hoài ấy là gì? Đó là nỗi niềm u uẩn trong lòng nữ sĩ. Bà nhớ về một thời xa xưa, dĩ vãng. Cái thời vàng son mà bà từng chứng kiến nó thật lộng lẫy tươi đẹp biết bao. Giờ đầy, trước cảnh vật, trong lòng nữ sĩ cháy bỏng lên một tâm sự nhớ nước, thương nhà sau tiếng kêu đều, khoan nhặt của chim quốc, gia gia.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

(Qua Đèo Ngang)

Nghệ thuật chơi chữ quốc là nước, gia là nhà. Tiếng quốc kêu hay chính lời non nước, tiếng cuốc kêu hay chính hồn Thục Đế. Sự đồng điệu trong âm thanh da diết không dứt ấy làm tâm hồn nhà thơ rộn lên, nao lên trong niềm nhớ nhà nhớ nước. Tiếng cuốc kêu như ứng với tiếng gọi tha thiết, mãnh liệt nhất trong tâm tư tình cảm của bà. Tiếng gọi gửi về đất nước? Tiếng gọi gửi về quê hương?

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Răm liễu sương sa khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Chiều xế bóng, mặt trời sắp tắt, bóng đêm dần bao phủ ngay cả những chú chim cũng đang tìm chốn ngủ, những bước chân lữ thứ tìm quán trọ qua đêm... Bà Huyện Thanh Quan nhớ lắm thương lắm muốn trở về, gặp lại quê hương, gặp lại người thân nhưng đành bất lực:

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Ở đây tác giả sử dụng điển cổ: Chương Đài để thể hiện sự mong mỏi xa cách giữa tác giả và người thân, quê hương gia đình. Lấy ai để tâm sự, giãi bày nỗi hàn ôn. Và vì vậy đối diện với mây trời non nước Đèo Ngang nữ sĩ như gặp lại chính mình:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tinh riêng, ta với ta

Mảnh tình riêng ấy là tâm sự cô đơn, bé nhỏ trước mây trời, sông nước. Bà và cảnh đã hoà làm một bởi có chung một tâm trạng. Cảnh bao la rộng lớn nhưng buồn bởi vì chủ thể trữ tình đang chất chứa một tâm trạng u hoài. Tâm sự chất chứa ấy lại bắt gặp chính nó: ta với ta, mấy ai mà bầy tỏ, hàn huyên tâm sự. Cái cổ điển chính là mượn cảnh để tả tình, trong tình có cảnh. Vần thơ buồn nhớ, cô đơn đến vô cùng.

Hai bài thơ trên là điển hình cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Chất cổ điển, trữ tình hoà quyện tạo nên thành công nổi bật cho hai bài thơ. Dẫu đã gấp trang sách lại chúng ta không thể nào quên những vần thơ trác tuyệt như vậy.

✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
10 tháng 7 2019 lúc 7:14

- Cảnh : Tác giả gợi lên cảnh thiên nhiên đèo Ngang hiện lên hoang sơ heo hút, cuộc sống vắng vẻ, không gợi được cảm giác vui cho con người trong tâm trạng cô đơn. Đầu tiên, ở hai câu đề, khi tác giả mới bước tới Ngang lúc vào buổi chiều tà, đứng dưới đèo thấy cảnh vật hoang sơ, heo hút, cây cối phải chen chúc nhau mới có thể tồn tại.Sau đó, ở hai câu thực, khi điểm nhìn thay đổi, đứng trên cao ngắm xuống dưới và ra xa, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để gợi lên sự ấn tượng, thấy những người tiều phu vất vả phải còng lưng gánh củi, xa xa bên sông chỉ thưa thớt vài căn nhà.

- Tình : Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc .

✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
10 tháng 7 2019 lúc 7:24

Đây nhé, bạn tham khảo bài văn về " Tình và cảnh trong bài thơ Qua Đèo Ngang" này nhé. Lần sau bạn viết đề cụ thể hơn nhé :

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ "Qua đèo Ngang" tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa.

Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này.

Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, lá chen hoa

Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mắt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hịu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn.

Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái da da

Điệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe vẳng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quanh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả "nhớ nước" và "thương nhà". Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt.

Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm

Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Chỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chốn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

B.Thị Anh Thơ
10 tháng 7 2019 lúc 7:29

Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề

"Bước tới đèo ngang bóng xế tà"

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

"Cỏ cây chen là đá cheo hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà"

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

"Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà"

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ "lom khom" khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ "vài" nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"

Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

"Dừng chân ngắm lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta"

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ "dừng chân ngắm lại" thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình "một mảnh tình riêng ta với ta". Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé "một mảnh tình riêng" của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.

Thời Sênh
10 tháng 7 2019 lúc 8:07

ật giở những trang thơ trữ tình của Bà Huyện Thanh Quan ta thường thấy thiên nhiên trong thơ bà hiện lên với một vẻ đẹp trang nhã, nhưng cũng man mác buồn. Bài Qua Đèo Ngang cũng là một bài thơ như thế, bức tranh trong bài thật hữu tình nhưng ẩn trong đó là tâm sự u hoài của tác giả.

Bài thơ chỉ vẻn vẹn tám câu nhưng đã gợi lên trong tâm trí người đọc một bức tranh Đèo Ngang với trời, non, nước.

Mở đầu bài thơ, nữ sĩ giới thiệu:

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà”.

Không phải vô tình khi bà chọn bóng xế tà để tả cảnh. Chiều tà, ấy là thời điểm gieo vào lòng người những nỗi niềm cảm xúc. Cảnh Đèo Ngang vốn nổi tiếng là đẹp, lại ẩn dưới bóng chiều thì càng gợi cảm hơn, càng như có hồn hơn. Cho nên những cảnh vật xuất hiệntrong bài thơ: trời, núi, sông với cỏ cây, hoa lá chen vào đá núi đều là những cảnh sơn thủy hữu tình.

Câu thơ: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” diễn tả thật sinh động sức sống dồi dào của hoa lá, tạo nên một bức tranh hoang dã mà hùng vĩ. Đó là vẻ đẹp sơ khai nguyên thủy của thiên nhiên không dễ có trong thơ cổ. Cảnh ấy càng đẹp khi được đặt trong một không gian cao và xa của trời đất.

Toàn cảnh Đèo Ngang dường như được thu vào tầm mắt của nhà thơ, lại còn được gợi lên trong tâm hồn, bởi nơi đây không chỉ có màu sắc, hình ảnh mà còn có âm thanh. Văng vẳng đâu đây trong hốc đá, giữa chiều muộn tiếng gọi bầy của chim đa đa, chim cuốc cuốc. Âm thanh vang vọng khiến cảnh càng thêm trang nhã.

Bài thơ viết về một vùng bao la, mĩ lệ của miền Trung nước Việt nhưng vẫn có vẻ hoang vu, quạnh quẽ bởi nó được cảm nhận từ tâm trạng u hoài của nữ sĩ.

Đọc thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy khung cảnh chiều tà xuất hiện trong thơ bà không chỉ một lần. Phải chăng đó là dụng ý để tả tâm trạng của nhà thơ? Chiều tà khiến cho cảnh vật thường nhạt nhòa, vì thế nó thường gieo vào lòng người những nỗi buồn bơ vơ nhất là với người lữ thứ. Hơn nữa cảnh vật Đèo Ngang thật mênh mông, cây cỏ, hoa lá chen chúc với đá gợi bao xa lạ cho người bộ hành nơi đất khách. Từ trên cao nhìn xuống chân đèo, khách bộ hành chỉ thấy thiên nhiên rợn ngợp, còn sự hiện hữu của con người lại quá thưa thớt: Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bèn sông, chợ mấy nhà.

Hình ảnh con người bị thu nhỏ lại bởi dáng lom khom, càng nhỏ bé khi xuất hiện dưới núi. Còn mấy quán chợ tiêu biểu cho hoạt động cuộc sống con người cũng chỉ thấp thoáng lác đác bên sông phía dưới ấy mà thôi. Sự xuất hiện của con người ở đây không tạo nên sự giao hòa đồng cảm chia sẻ nỗi buồn được mà chỉ làm tăng nỗi cô đơn vì xa cách. Đã thế tiếng chim lẻ bạn cứ khắc khoải kêu hoài:

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mồi miệng, cái gia gia.

Âm thanh tha thiết lan tỏa không gian của một ngày tàn nơi hoang vắng, vừa có cái gì da diết vừa có cái gì xót xa thấm vào tâm trạng nhà thơ, gợi lên nỗi thương nhà, nhớ nước. Nhớ nhà thì đã rõ, bởi bà đang xa nhà. Nhưng tại sao đang sống giữa thời bình mà lạinhớ nước như tâm trạng kẻ mất nước vậy? Phải chăng là tâm trạng hoài Lê như người ta thường nói về câu thơ này? Chắc đây không phải là tâm trạng đó, vì khi bà ra dời thì triều đại này đã mất từ lâu. Nếu nói rằng bà chịu ảnh hưởng tâm sự của người cha là quan của triều Lê thì chắc cũng không nặng nề đến thế. Vậy phải chăng tiếng kêu nẫu ruột của con chim cuốc đã khơi dậy trong bà nỗi đau “cảm cổ thương kim” thường cũng là tâm sự của nhiều kẻ sĩ Bắc Hà. Thương về nỗi thế sự tang thương hiện tại mà nhớ về một quá khứ vàng son rực rỡ.

Nỗi niềm tâm sự ấy không biết chia sẻ cùng ai ở nơi chỉ có trời, non, nước:

Dùng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Một bên là cái bao la của đất trời, một bên là nỗi cô đơn tuyệt đối. Cách ngắt nhịp của câu thơ thứ bảy (4-1-1-1) không theo luật thơ Đường bình thường, nhờ thế góp phần không nhỏ vào diễn đạt tâm trạng của nhà thơ. Cảnh vật bị tách rời ra như tâm trạng đang tan ra từng mảnh. Trong thơ cổ khi tả nỗi cô đơn, các thi nhân thường cảm nhận quanh mình không có con người, chỉ đối diện với vật vô tri (“Còn một non xanh là cố nhân” – Nguyễn Trãi; “tựa gối ôm cần” – Nguyễn Khuyến; “Thức suốt năm canh một ngọn đèn” – Tú Xương,…). Còn dối với Bà Huyện Thanh Quan thì đến một vật vô tri cũng không có, chỉ mình đối diện với nỗi cô đơn của chính mình: “ta với ta”. Nỗi cô đơn trong tâm hồn thi nhân thốt lên thành lời thơ ngắt quãng như thổn thức.

Qua Đèo Nganglà một bài thơ trữ tình đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan: Cũng là một buổi chiều của tâm trạng, cũng có câu thật buồn như câu thơ cuối, nhưng cảnh chưa “tang thương” đến nỗi đứt ruột “luống đoạn trường” mà cảm khái non nước trong bài thơ này là nỗi buồn dịu dàng man mác. Vĩ đọc bài thơ người ta có buồn nhưng những bức tranh thiên nhiên độc đáo lại đem đến những cảm xúc tao nhã, thiết tha về giang sơn gấm vóc.

Minh Nhân
10 tháng 7 2019 lúc 9:18

Tham Khảo

Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức.

Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp.

Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu.

Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút.

Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa. Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.

Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả. Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối.

Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả.

Qua bài thơ Qua đèo Ngang ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.

Aurora
10 tháng 7 2019 lúc 9:35
. Dàn ý chi tiết cho đề bài phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang 1. Mở bài

Giới thiệu nỗi nhớ nước thương nhà nỗi buồn thầm lặng của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ Qua Đèo Ngang: Đặc biệt trong số đó có bài thơ “Qua Đèo Ngang”, là một bài thơ Đường luật, nói lên tấm lòng, nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Đồng thời người đọc còn cảm nhận được nỗi buồn thầm lặng của bà trong bài thơ này

2. Thân bài Nỗi nhớ quê nhà trước cảnh vật khi chiều tà: Chiều tà là khoảng thời gian cuối ngày, kết thúc một ngày làm việc và lao động, mọi hoạt động của con người ngừng nghỉ tại đây. Đây chính là thời điểm xum vầy gia đình, gợi nhắc tới sự đoàn viên Nỗi lòng nhớ nước và quê hương da diết: Tiếng chim cuốc nhưng lại kêu “quốc quốc”, đây là một nghệ thuật chơi chữ của nhà thơ, bày tỏ rằng tiếng kêu ấy hướng về tổ quốc, quê hương. Nỗi thương nhà, gia đình và người thân: Ngoài nỗi nhớ nước, quê hương, tác giả còn bày tỏ nỗi thương nhà, thưng gia đình. “Gia gia” ở đây chính là nhắc tới gia đình, người thân của nữ thi sĩ Tâm sự thầm kín và nỗi buồn thầm lặng của tác giả: Đó là những tâm sự chất chứa trong lòng tác giả mà bà chẳng thể san sẻ, dãi bày cùng ai, chỉ đành ấp ủ riêng mình “ta với ta”. 3. Kết bài

Ý nghĩa của bài thơ: Như vậy qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện tình yêu gia đình, quê hương, đất nước của một con người xa quê. Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng cô đơn lạc lõng của nữ thi sĩ nơi đất khách quê người.

II. Bài tham khảo cho đề phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam với rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu có giá trị cho tới ngày nay. Đặc biệt trong số đó có bài thơ “Qua Đèo Ngang”, là một bài thơ Đường luật, nói lên tấm lòng, nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Đồng thời người đọc còn cảm nhận được nỗi buồn thầm lặng của bà trong bài thơ này.

Vốn là một người yêu quê hương và gắn bó với quê hương, nên khi phải xa nhà, xa quê hương, tác giả đã không giấu khỏi những nỗi buồn man mác về nhớ nhà, nhớ quê hương. Mở đầu bài thơ là cảnh chiều tà trên Đèo Ngang, gợi không gian u buồn và nỗi nhớ quê nhà:

“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Chiều tà là khoảng thời gian cuối ngày, kết thúc một ngày làm việc và lao động, mọi hoạt động của con người ngừng nghỉ tại đây. Đây chính là thời điểm xum vầy gia đình, gợi nhắc tới sự đoàn viên, vì vậy đã khiến cho ngườ xa quê như tác giả buồn man mác. Hình ảnh cỏ cây hiện lên cũng làm tô đậm khung cảnh hoang sơ, um tùm cà chen chúc của cỏ cây, tạo cảm giác rợn ngợp, trống vẵng, bủa vây người thi sĩ.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Trong khung cảnh chiều tà trống vắng ấy, Bà Huyện Thanh Quan đã thu vào mắt mình bóng dáng của con người, nhịp sống bình dị của mảnh đất nơi đây. Vài chú tiều đang lom khom vừa đi vừa vừa nhặt củi và có thể đang trên đường về nhà. Bóng dáng ấy gợi lên sự cô độc của tác giả đang bơ vơ nơi đất khách quê người, phải bước tiếp chứ không được trở về nhà. Rồi xa xa bên sông kia là những mái nhà chợ “lác đác”, cảnh tượng ấy thật đìu hiu và cô quạnh, sự xuất hiện của mái nhà và con người không những chẳng giảm đi vẻ hoang vắng của khung cảnh mà còn làm tăng thêm sự cô đơn và lạc lõng trong lòng tác giả – một người tha phương xa quê.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Bức tranh đầy tâm trạng của tác giả đã được mở ra, bộc lộ rõ nét nỗi nhớ thương quê nhà da diết và cồn cào. Nhà thơ đã dùng hình ảnh con chim cuốc thân thuộc gần gũi để nói về nỗi nhớ quê hương. Tiếng chim cuốc nhưng lại kêu “quốc quốc”, đây là một nghệ thuật chơi chữ của nhà thơ, bày tỏ rằng tiếng kêu ấy hướng về tổ quốc, quê hương. Ngoài nỗi nhớ nước, quê hương, tác giả còn bày tỏ nỗi thương nhà, thưng gia đình. “Gia gia” ở đây chính là nhắc tới gia đình, người thân của nữ thi sĩ.

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Đây là giây phút nhà thơ lắng đọng những cảm xúc của mình khi đứng trên một vùng đất mới mẻ. Đó là những tâm sự chất chứa trong lòng tác giả mà bà chẳng thể san sẻ, dãi bày cùng ai, chỉ đành ấp ủ riêng mình “ta với ta”.

Như vậy qua bài thơ “Qua Đèo Ngang” Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện tình yêu gia đình, quê hương, đất nước của một con người xa quê. Bài thơ cũng thể hiện tâm trạng cô đơn lạc lõng của nữ thi sĩ nơi đất khách quê người.

Titania Angela
10 tháng 7 2019 lúc 16:01

Tác phẩm "Qua đèo Ngang" là bài thơ đánh dấu tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ ra đời vào thời điểm bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang, một con đèo nổi tiếng tiếng với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ buồn man mác, hồn thơ tinh tế đi vào lòng người "Qua đèo Ngang" không còn là một bức tranh thiên niên đơn thuần mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của nữ thi sĩ với sự tiếc nuối và buồn về thế sự đất nước lúc bấy giờ.

Sự sáng tạo nhưng vẫn có nét truyền thống, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với kết cấu đề thực luận kết. Mở đầu tứ thơ với hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Hai câu thơ đầu tiên thi sĩ đã khai mở toàn bộ không gian, thời gian khi sáng tác bài thơ. Hai câu thơ đề với lối thơ rất tự nhiên, không bị gò ép trong khuôn khổ chung thời ấy. Trong cảnh hoàng hôn "bóng xế tà", nữ thi sĩ bước đến mang trong mình những cảm xúc khó tả, say đắm trong không gian rộng lớn sâu thẳm của đèo cao, thời gian mênh mông của trời chiều. Bao giờ cùng vậy, trong thi ca trung đại, "bóng xế tà" luôn gợi cho con người một nỗi buồn man mác không tên, mênh mang hơn đất trời, có chút gì đó lưu luyến thời gian của một ngày đã qua. Trong không gian chiều ấy, một nét chấm phá làm nổi bất thiên nhiên nơi đèo núi chập chùng: "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Khi hoàng hôn buông dần phai, không gian ngày tàn mà tác giả còn bắt gặp được một sức sống tiềm tàng của thiên nhiên. Sử dụng phép nhân hóa, kết hợp động từ "chen" nữ thi sĩ như thổi vào thiên nhiên một linh hồn với sự sống mãnh liệt, đang vươn lên. Từ ngọn cỏ, từng nhành hoa nhỏ bé kia đang chen lên những tảng đá lớn, giữa một không gian ấy, cảnh vật mang một nét đẹp lạ lùng.

Từ gần đến xa, tác giả đưa mắt ra phía dưới đèo, con người xuất hiện:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Bức tranh chỉ thêm đẹp khi có sự xuất hiện của con người. Biện pháp đảo ngữ các từ láy gợi tả như "lom khom" , "lác đác" và các chỉ từ "vài" , "mấy" làm không gian chở nên hiu hắt, con người thì quá đỗi nhỏ bé so với thiên nhiên hùng vĩ chiều hôm. Dưới chân núi, vài chú tiều phu đốn củi, vài mái nhà thưa thớt quanh quanh. Không gian bao chùm lên toàn bộ cảnh vật là sự hưu quạnh và vắng vẻ.

Hai câu luận là nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh giang sơn đất nước đang ngày một lụi tàn:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu của con quốc hay chính là tiếng lòng tác giả. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" là câu thơ bắt nguồn từ điển tích xưa về vua Thục vì mất nước mà hóa thành con cuốc chỉ biết kêu những tiếng đau thường. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều trở nên diệu vợi. Còn tiếng "gia gia" là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi "thương nhà". Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Những xúc cảm của thi sĩ được bộc lộ một cách trực tiếp bằng hai câu luận. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa " đau lòng" "mỏi miệng" cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu thương nước nhà.

Với kết cấu đầu cuối tương ứng, hai câu kết khép lại những tâm trạng của thi nhân:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật khiến dừng bước chân trên con đường đến Phú Xuân. Cái bao la của đất trời, cái hùng vĩ của núi non, cái mênh mông của sông nước như níu bước chân nữ thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la của đèo Ngang , tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần lấp đầy tâm hồn, bao chùm lên mọi cảnh vật"một mảnh tình riêng ta với ta". Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn của người lữ khách càng vơi đầy. Một mảnh tình riêng, một tâm tư sâu kín, những tâm trong lòng mà chẳng tìm nổi một người để sẻ chia. Nỗi buồn cứ vậy lắng vào cảnh vật, tâm trạng kéo dài miên man. Chỉ có "ta" và "ta" giữa mênh mông trời đất.

Bài thơ khép lại, mở ra những suy tư cho người đọc. Khiến người ta nhớ về một thời đại lụi tàn, một nữ thi sĩ bơ vơ. Bức tranh cảnh vật và tâm trạng ấy để lại biết bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Nguyễn Phúc Bình
11 tháng 7 2019 lúc 8:31

Bước vào làng văn học Việt Nam ta bắt gặp một nữ sĩ với những vần thơ trang nhã cổ điển, ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua Đèo Ngang và Chiều hôm nhớ nhà. Cả hai bài thơ này được làm theo thể thơ Đường luật mầu mực, phong vị cổ điển, lời ít ý nhiều. Chính nhờ điều này mà hai bài thơ sông mãi với thời gian.

Thi pháp cổ điển ấy chính là văn chương bác học, dùng nhiều điển cố, điển tích, ngôn ngữ thơ điêu luyện, chắt lọc... Trong hai bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện rõ vấn đề này.

Trước hết, điểm nổi bật trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ tinh tế mà đượm buồn. Cả hai bài thơ ta đều bắt gặp một khung cảnh gợi buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày. Cảnh Đèo Ngang trong lúc xế bóng vắng vẻ hoang sơ:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

(Qua Đèo Ngang)

Còn trời chiều trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà:

Trời chiều băng lảng bóng hoàng hôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Đối diện với khung cảnh này thì những người hời hợt lắm cũng phải buồn chứ không nói gì đến người giàu cảm xúc như nữ sĩ.

Nếu như trong bài Qua Đèo Ngang tín hiệu nghệ thuật đầu tiên mà tác giả sử dụng là bóng xế tà thì bài thơ Chiều hôm nhớ nhà cũng đồng thời là bóng hoàng hôn. Thơ xưa khi nói về tâm sự, nỗi buồn người ta thường mượn cảnh đế ký thác đặc biệt là hình ảnh bóng chiều. Bác Hồ của chúng ta sau này đã từng thể hiện thành công hình ảnh chiều tà thể hiện sự vất vả và ý chí, nghị lực của người tù

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không...

(Chiều tối)

Buổi chiều gợi cho ta cảm giác nhớ nhà, nhớ gia đình người thân. Đặc biệt đây lại là tâm trạng của kẻ lữ thứ xa quê, trên đỉnh đèo Ngang chỉ có:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa thì ở Chiều hôm nhớ nhà cũng hoang vắng đến lạnh lùng:

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Đây là âm thanh rõ nhất khiến ta cảm giác đầy đủ nhất. Ta nghe thấy tiêng ốc nhưng lại xa đưa, lúc khoan lúc nhặt nghe thật buồn tẻ. Cái âm thanh đó chỉ làm sâu hơn nỗi buồn của nhà thơ.

Cả hai bài thơ tác giả chỉ thấy cuộn lên một nỗi buồn, nỗi buồn sâu thẳm mênh mông. .

Xa chốn kinh kỳ ồn ã náo nhiệt vào làm quan ở Huế, lòng nữ sĩ có bao nỗi buồn chất chứa. Kinh thành Thăng Long nơi bà từng sông nó khác hẳn với cuộc sống nơi này - đèo Ngang.

Hình ảnh con người trong hai bài thơ này chỉ thoáng bóng. Đó chính là những người dân lao động nghèo vất vả, lam lũ. Cuộc sống của họ thật tẻ nhạt, đơn sơ

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

(Qua Đèo Ngang)

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Thủ pháp nghệ đảo ngữ nhuần nhị tạo nên một hình ảnh thưa thớt, vắng vẻ của cuộc sống con người nơi đây. Vài chú tiều phu đốn củi lom khom, lác đác mấy ngôi nhà chợ thưa thớt, cô tịch, đìu hiu. Hai câu thực trong bài Qua Đèo Ngang đối nhau rất chỉnh, tạo sự hài hoà và phô rõ cuộc sống của con người nơi Đèo Ngang. Đèo Ngang lúc này hoàng hôn đã buông xuống, mọi hoạt động của con người cũng lắng xuống, không còn sự ồn ào, xao động của thời điểm trước đó. Vì vậy Bà Huyện Thanh Quan không thể vui vẻ, càng không thể hững hờ trước cảnh buồn man mác đó.

Nhưng nỗi niềm u hoài ấy là gì? Đó là nỗi niềm u uẩn trong lòng nữ sĩ. Bà nhớ về một thời xa xưa, dĩ vãng. Cái thời vàng son mà bà từng chứng kiến nó thật lộng lẫy tươi đẹp biết bao. Giờ đầy, trước cảnh vật, trong lòng nữ sĩ cháy bỏng lên một tâm sự nhớ nước, thương nhà sau tiếng kêu đều, khoan nhặt của chim quốc, gia gia.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

(Qua Đèo Ngang)

Nghệ thuật chơi chữ quốc là nước, gia là nhà. Tiếng quốc kêu hay chính lời non nước, tiếng cuốc kêu hay chính hồn Thục Đế. Sự đồng điệu trong âm thanh da diết không dứt ấy làm tâm hồn nhà thơ rộn lên, nao lên trong niềm nhớ nhà nhớ nước. Tiếng cuốc kêu như ứng với tiếng gọi tha thiết, mãnh liệt nhất trong tâm tư tình cảm của bà. Tiếng gọi gửi về đất nước? Tiếng gọi gửi về quê hương?

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Răm liễu sương sa khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Chiều xế bóng, mặt trời sắp tắt, bóng đêm dần bao phủ ngay cả những chú chim cũng đang tìm chốn ngủ, những bước chân lữ thứ tìm quán trọ qua đêm... Bà Huyện Thanh Quan nhớ lắm thương lắm muốn trở về, gặp lại quê hương, gặp lại người thân nhưng đành bất lực:

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Ở đây tác giả sử dụng điển cổ: Chương Đài để thể hiện sự mong mỏi xa cách giữa tác giả và người thân, quê hương gia đình. Lấy ai để tâm sự, giãi bày nỗi hàn ôn. Và vì vậy đối diện với mây trời non nước Đèo Ngang nữ sĩ như gặp lại chính mình:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tinh riêng, ta với ta

Mảnh tình riêng ấy là tâm sự cô đơn, bé nhỏ trước mây trời, sông nước. Bà và cảnh đã hoà làm một bởi có chung một tâm trạng. Cảnh bao la rộng lớn nhưng buồn bởi vì chủ thể trữ tình đang chất chứa một tâm trạng u hoài. Tâm sự chất chứa ấy lại bắt gặp chính nó: ta với ta, mấy ai mà bầy tỏ, hàn huyên tâm sự. Cái cổ điển chính là mượn cảnh để tả tình, trong tình có cảnh. Vần thơ buồn nhớ, cô đơn đến vô cùng.

Hai bài thơ trên là điển hình cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Chất cổ điển, trữ tình hoà quyện tạo nên thành công nổi bật cho hai bài thơ. Dẫu đã gấp trang sách lại chúng ta không thể nào quên những vần thơ trác tuyệt như vậy.


Các câu hỏi tương tự
Nguyên Thị Nami
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Chi
Xem chi tiết
Trương Khánh Ly
Xem chi tiết
Hinamori Amu
Xem chi tiết
Thảo Trần
Xem chi tiết
Khanh Tuong Le
Xem chi tiết
Vương Hàn
Xem chi tiết
Nguyen Ngoc Lien
Xem chi tiết
Ngọc hiền
Xem chi tiết
Võ Nguyễn Gia Hưng
Xem chi tiết