Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng long thờ Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.
Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám (văn lớp 8)
Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đấy nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
- Văn Miếu - Quốc Từ Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.
- Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hằng năm vào ngày rằm tháng giêng.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
- Năm 1076. Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.
- Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Ọuốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ..
- Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
- Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.
- Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp) Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).
- Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo giáo dục cao cấp của triều đình.
- Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.
- Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu - Hà Nội và cho xây dựng Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khống Tử.
- Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
2. Kết cấu
- Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
- Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dày đều 14 gian.
- Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
- Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bàng gạch Bát Tràng.
- Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng Khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc.
- Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây cỏ lầu để ngắm cảnh.
- Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.
- Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
- Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
+ Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Mòn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Mòn và Đạt Tài Môn.
+ Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).
+ Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).
+ Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.
+ Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới
được xây dựng lại năm 2000.
- Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tử Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).
- Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.
- Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất. giữa hai thái cực âm - dương.
3. Ý nghĩa
- Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
- Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. KẾT BÀI
- Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê - Mạc tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
- Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.
Chào mừng quý khách đã đến với khu di tích Văn Miếu -Quốc tử Giám
Trước tiên cho phép tôi xin phép được tự giới thiệu :tên tôi là……… là thuyết minh viên tại di tich Văn Miếu –Quốc Tử Giám –là trường đại học đầu tiên và cũng là biểu tượng cho văn hoá lịch sử Việt Nam.
Thay mặt cho BQL di tich tôi xin gửi lời chúc sức khoẻ đến tất các bạn.Chúc các bạn có một buổi tham quan vui vẻ va bổ ích.
Hôm nay tôi rất vinh dự đuọc cùng các bạn đi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám –một trường đại học có hằng nghìn năm trước ,là khu di tích văn hoá hằng đầu và là niềm tự hào của ngưòi dân thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của hà nội.
Để cho buổi tham quan hôm nay đựơc diễn ra an toan và vui vẻ,tôi xin lưu ý với các bạn một số điều sau:các bạn không nên nói to và nô đùa khi tham quan bên trong ,không vứt rác bừa bãi không giẫm lên cỏ ,không nên tách đoàn và đặc biệt là không nên “xoa” lên đầu các cụ rùa.
Vâng,chúng ta sẽ có 2 tiếng để tham quan di tích .bây giờ là 9h và đúng 11h các bạn tập trung tại đây,trước cổng Văn Miếu ,đối diện với quầy bán vé.và bây giờ xin mời các bạn vào tham quan Văn Miếu.
Thưa các bạn Văn Miếu là tên viết tắt của Văn Tuyên Vương Miếu tức là Miếu thờ Văn Tuyên Vương Khởng Tử.Tuy nhiên ,hiện nay mọi người hiểu Văn Miếu là Miếu Văn ,từ “Văn”mang nghĩa là văn hóa ,văn minh,văn học là nét đẹp của con người.
Văn Miếu được xây dựng vào tháng 8 năm canh tuất(tức tháng 10 năm 1070)tức năm Thần Vũ thứ 2 đời Vua Lê Thánh Tông.Ông cho lập Văn Miếu làm nơi thờ ác ông tổ Nho giáo và Nho học như Chu Công _Khổng Tử.
Nhìn tổng thể thì Văn Miếu là khu đất hình chữ nhật khá rộng với diện tích khoảng 54000m2 được bao quanh bởi một khu tường có chiều dài hơn 300m va rộng 700m,chạy từ đường Quốc Tử Giám đến đầu phố Nguyễn Thái Học.Văn Miếu xưa là đất Hữu Nghiễm huyện Thọ Xương,nay thuộc quận Đống Đa Hà Nội.Quần thể kiến trúc văn miếu được bố cục đăng đối từng khu,từng lớp theo trục bắc nam,mô phỏng tổng thể quy hoạch khu văn miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Tuy nhiên,quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc .Toàn bộ kiến trúc văn miếu đều là kiến trúc đầu nhà Nguyễn.Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ,loại gạch đặc trưng từ thời Lê ,có tuổi thọ trên 300 năm tuổi.
Bên ngoài có tường bao quanh bên trong được chia làm 5 khu.
Và bây giờ tôi sẽ cùng các bạn tham quan lần lựơt các lớp kiến trúc.trước tiên là Hồ Văn.
Hồ Văn xưa kia gọi là Thái Hồ,có diện tích là 12297m2,giữa hồ có gò Kim Châu,trên gò dựng Phán Thuỷ đường là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa.Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò nay còn một tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 1891865)trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn.
Các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng bên cạnh giá trị về cảnh đẹp du ngoạn còn có giá trị về triết học tâm linh theo lối kiến trúc “thượng gia hạ trì”.
Đối diện với Hồ Văn là cổng Tam quan .Khu này được bắt đầu bằng Tứ Trụ và hai bia Hạ Mã ở hai bên .trước kia Tứ Trụ soi bong xuống mặt Hồ Văn nhưng nay đã bị ngăn cách bởi phố Quốc Tử Giám.
Tứ Trụ được xây bằng gạch hai trụ giữa xây cao hơn có hình hai con nghê chầu vào.theo quan niệm tâm linh xưa ,con nghê là con vật linh không hại ai,nó có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện.Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh,đuôi chắp vào nhau.Phượng là con vật linh biểu hiện cho tầng trên với ý nghĩa:đầu đội chân lí,mắt là mặt trời,lưng cõng bầu trời,long là cây cỏ,cánh là gió ,đuôi là tinh tú ,chân là đất. Vì thế nó tượng trưng cho cả vũ trụ mang tư cách vận chuyển bầu trời.
Hai tấm bia Hạ Mã được đặt trong hai nhà bia nhỏ xây gạch ,xưa kia dù công hầu hay khanh tướng ,dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ Mã nay sang tấm bia Hạ Mã kia lại mới lên ngựa lên xe đi tiếp.
Trước mắt chúng ta là lối vào chính khu Văn Miếu ,ở phía nam chính là văn miếu môn.Văn Miếu Môn tức là cổng quan ngoài cùng ,cổng Tam Quan lớn xây 2 tầng 3 cửa.Cửa giữa to,tầng trên có đề chữ”Văn Miếu Môn”.Kiến trúc cùa Văn Miếu Môn khá độc đáo và đẹp mắt.Đây là kiểu kiến trúc hai tầng tám mái .Nhìn bề ngoài ,Tam Quan là một kiểu kiến trúc riêng biệt cửa chính giữa xây hai tầng .Mặt bằng hình vuông,tầng dười to,tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới ,xung quanh thừa ra một hang hiên nhỏ bốn mặt có lan can.Phía bên trong tầng dưới chỉ mở một của cuốn.Đây là hai cánh của bằng gỗ lim mở vào trong,cửa hình bán nguyệt và chạm nổi hình đôi rồng chầu mạn nguyệt.Hai cửa nhỏ hai bên là bậc lên tnầg hai quan trọng.Tầng 2 chính là tam quan mở 3 cửa cuốn không có cánh cửa.Tầng trên là tám mái,bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên o bốn góc.Bờ nóc cũng có đắp nổi “lưỡng long chầu nguyệt”,thể hiện sự hài hoà âm dương.Ở đây có các cánh cửa ở các bậc cổng ,hình ành này xuất hiện khá nhiều .Lưỡng long chầu mạn nguỵêt nhằm biểu dương cho Nho Giáo.
Trước kia ,trên cổng tam quan có dựng một tấm bia khắc hai bài thơ tứ tuyệt của vua Khải Định khi đi bắc tuần ghé thăm Văn Miếu năm 1891.Bia đó nay khôna còn chỉ còn hai bệ bia bằng đá ,hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp .Hổ Phù là một quỷ vương kẻ thù của mặt trăng và mặt trời,hay tìm nuốt mặt trăng và mặt trời tạo ra hiện tượng nguyệt thực và nhật thực:nguyệt thực toàn phần được người Việt Nma xem như là đói và chiến tranh,Nguyệt thực một phần sẽ no đủ cho nên người ta hay chạmHổ Phù về mặt trăng sa,sau nay thay bằng chữ nho hay hoa cúc để cầu sự no đủ.
Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê ,bên trong là đôi rồng mang phong cách đời Nguyễn .Hai mặt tam quan đều được đắp nổi hai câu đối chữ Hán.Bên trái trước cổng tam quan đắp nổi cảnh “long ngư hội tụ” cá-rồng ẩn hiệntrong mây ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành đạt,bên phải là cảnh “mảnh hổ hạ sơn” núi rừng mây nước nổi bật lên dáng dấp của một con hổ hung dũng xuống núiví như các bậc thức giả khí thế bước vào đời.
Tiếp theo là “tả môn” và “hữu môn” ở hai bên nhỏ hơn và thấp hơn cũng xây bốn mái hiên và bốn mái nóc nhìn tựa như kiến trúc hai tầng .Cổng tam quan chỉ được mở khi các bậc vua quan tới thăm văn miếu và tế lễ Khổng Tử .Còn học trò và thứ dân thì phải đi bằng hai cửa ngách.Vâng ,bây giờ chúng ta sẽ thử một lần được làm vua,tiếp tục đi qua cổng giữa để vào thăm văn miếu.
Theo con đường lát gạch này dẫn tới khu thứ hai được bắt đầu bằng cửa “Đại Trung Môn”,2 bên là hai cổng nhỏ có tên là”thành đức “và ‘đạt tài” mang ý nghĩa nho giáo đào tạo con người vừa có đức vừa có tài.Cổng Đại Trung gồm 3 gian ,xây trên nền gạch cao,mái lợp ngói mũi hài ,có hai hang cột trước và sau,ở giữa là:”hàng cột chống nóc”.Bên trên cổng chính là hình haio con cá chép chầu bình móc ở giữa.Sở dĩ có hình ảnh cá chép bởi theo truyền thuyết Trung Quốc :cá vượt vũ môn.Hằng năm trời tổ chức cuộc thi kén rồng ở của Vũ-con cá nào mà nhảy qua được một lúc ba đợt khác nhau thì lập tức có tiếng sấm nổ ,cá biến thành Rồng.Và chỉ có cá chép là làm được điều đó.ngày nay các bạn nhìn cá trê đầu nó bẹp vì người ta cho rằng trong cuộc thi nó đã không vượt qua được và đầu nó va vào đá.con cá chày mắt đỏ vì nó không vượt qua nên khóc nhiều quá…Do vậy, của Vũ được dung để chỉ chốn trường thi:cá vượt vũ môn”chỉ việc thi cử ,muốn đỗ đạt thi phải tích góp kiến thức,học tập chăm chỉ.
Qua cửa Đại Trung Môn,các bạn tiếp tục đến vớikhu vực thú ba cùa Văn Miếu-Quốc Tử Giám-Khuê Văn Các.
Khuê Văn Các hay còn gọi là Gác Khuê Văn .Là một lầu vuông tám mái được xây dựng vào năm 1805 đời vua gia long triều Nguyễn.Gác dựng trên một nền vuông cao ,lát gạch Bát Tràng,kiểu dáng kiến trúc độc đáo.Tầng dưói chỉ là bốn trụ gạch,bốn bề trống không.Tầng trên là kiến trúc gỗ từ mái,lớp và phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc cát vôi.Bốn cạnh sàn gỗ có diềm trạm trổ tinh vi,bốn góc sàn làm lan can con trên cùng bằng gỗ,bốn mặt tường bịt ván gỗ ,mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống toả ra 4 phía.
Các cửa sổ tròn trong khung gỗ vuông nói lên quan niệm trời tròn-đất vuông âm dương hoà hợp cùa người xưa,của và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sức khoẻ.
Khuê văn theo cách lí giải về thiên thể ,khuê là một ngôi sao trong chòm 28 sao,là đầu Bạch Hổ phương tây có 16 ngôi sắp xếp khúc khửu giống hình chữ văn.chính vì vậy sao khuê được coi là sao chủ về văn học.Khuê Văn Các là biều tượng cho thu đô Hà Nội,biểu tượng của trí thức,biểu tượng cho thủ đô ngàn năm văn hiến.
Cạnh Khuê Văn Các là giếng Thiên Quang đầy nước trong xanh in hình Khuê Văn Các.Gác Khuê Văn xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di tích Văn miếu-Quốc Tử Giám.Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí Văn (văn đẹp đẽ,trau truốt,sang sủa)và súc văn(văn hàm ý ,súc tích có sức truyền cảm thuyết phục con người).
Sau đây xin mời các bạn đến với giếng Thiên Quang hay còn gọi là Văn Trì tức Ao Vua.Thiên Quang có nghĩa là giếng trời trong sáng .Đặt tên này cho giếng ý muốn nói con người thu nhận được tinh tuý của vũ trụ ,soi sáng trí thức ,nâng cao phẩm chất ,tô đẹp nền nhân văn.Giếng có hình dáng rất đặc biệt:hình vuông,quanh bờ có hành lang bao quanh .Kiến trúc này được xây dựng theo quan niệm của người xưa :giếng hình vuông tượng trưng cho đất,cửa tròn gác văn khuê tượng trưng cho trời.Như vậy ,tinh hoa của cả đất và trời được tập trung ở trung tâm văn hoá giáo dục lớn nhất cả nước tại kinh đô Thăng Long.
Mời các bạn nhìn sang hai bên giếng Thiên Quang,đó chính là khu nhà bia,một di yích có giá trị bậc nhất tại Văn Miếu –Quốc Tử Giám.Khu nhà bia gồm 82 tấm bia chiến sĩ được chia đều sang 2 bên giếng Thiên Quang.trên bia có khắc rõ tên và quê quán của 1307 vị tiến sĩ.
Ý tưởng dựng bia được khởi sự từ đời Vua Lê Thánh Tông (1484)và các đời vua kế tiếp cho khắc tên các vị danh nhân lên bia nhằn biểu dưong các vi tiến sĩ đỗ đạt và khích lệ tinh thần hoc hành thi cử.o mỗi bên khu nhà bia dều có một toà đình vuông,với 4 mặt trống không,bên trong thờ bia,nên còn được gọi là Bi Đình.Xưa kia jhằng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cung sắp lễ vật cúng bái các vị tiên nho mà vẫn được khắc tên trên bia đá đến bây giờ.82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc ,tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con rùa,đầu ngẩng cao,4 chân xoài ra trong tư thế đang bò lên.
Như các bạn đang thấy,bia gồm 3 phần là trán bia,than bia và đế bia.
Trán bia có hình khum vòm,vơí các hoạ tiết lưỡng long chầu mạn nguyệt.
Thân bia:đây là phần quan trọng nhất của bia,nhần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi.Bnê dưới là bài kí khắc theo chiều dọc của bia,đọc từ trên xuống dưới từ phải sang trái,với nội dung ca ngợi triều vua đang trị vì.tiếp theo là năm tổ chức khoa thi,số lượng thí sinh thi,số lượng người lấy đỗ,tên tuổi quê quán của người viết văn bia và người khắc bia.phnầ quan trọng nhất là tên tuổi quê quán của các vị tiến sĩ được sắp xếp từ cao xuống thấp là đệ nhất tiến sĩ,đệ nhị tiến sĩ,đệ tam tiến sĩ.
Đế bia là hình một con rùa.
Có lẽ các bạn đang thắc mắc tại sao lại là rùa phải không ạ?
Vâng ,theo quan niệm của người Việt thì rùa từ xa xưa đã gắn bó với người dân Việt Nam:Đó là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa,rùa là xứ giả của Thuỷ Vươnggiúp Lê Lợi đại phá quân Minh…hơn thế Rùa là một trong tứ linh,bung phặng tượng trưng cho đất mang yếu tố âm,mai khum tượng trưng cho trời mang yếu tố dương tượng trưng cho trời.vì thế rùa hội tụ cả âm và dương.ngoài ra Rùa còn có ý nghĩa là trường tồn và vĩnh cửu.Bia đá đặt trên lưng rùa nhằm khẳng đinh sự trường tồn của trí tuệ của tinh hoa dân tộc việt.
82 tấm bia có ghi 1307 nhân vật trong đó có 17 trạng nguyên,19 bảng nhãn,47 thám hoa,284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ.
Người được khắc tên trên bia đầu tiên là ông Nguyễn Trực(1442)người cuối cùng được khắc tên trên bia là Phạm Huy Ôn(1779).người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất là ông Bàn Tử Quang và đỗ khi tuổi mới 13,trẻ nhất là Nguyễn Hiền.Qua văn bia chúng ta vẫn thấy có những vị danh nhân vẫn được lưu truyền như nhà sử học Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ năm 1442,nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm……nhìn vườn bia các bạn có thể thấy nhiều tấm bia với kiến trúc khác nhau bởi chúng được làm trong thời gian khác nhau.
Các bia khắc vào thế kỷ 15 có 14 chiếc ,những tấm khắc vào thế kỷ 17 có 25 chiếc ,những tấm bia loại ba được xây dựng vào thế kỷ 18 .ngoài ra còn có một số bia không thuộc loại nào.Các bạn có thấy những hàng chữ bị xóa trên bia không ạ?đó là o khi triều Nguyễn lên cầm quyền d0 có những mâu thuẫn với triều đình trước đã cho xoá đi.Nếu ta tính từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) tới khoa thi Đinh mùi 1789 thì phải có 124 kỳ thi và phải có 117 bia tiến sĩ.Nhưng sau bao chiến tranh thì hiện nay chỉ còn 82 bia.
Vâng tôi và các bạn vừa được tham quan khu nhà bia một niềm tự hào của nền văn hoá việt,và sau đây xin mời các bạn tiếp tục đến với khu vực thứ tư của văn miếu đó là Đại Trung Môn và Nhà Đại Bái.
Đại Trung Môn là khu vực chính thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết bao gồm Đại Thành,nhà Đại Bái và hai dãy Đông Vu ,Tây Vu.
Cửa Đại Thành 3 giam 2 cột hiên trước và sau giống như cửa Đại Trung một hang giữa đỡ xà nóc,ba gian đều được lắp của gỗ sơn đỏ trên có hoạ tiết rồng,mây.Gian giữa đề ba chữ :Đại Thành Môn.Cửa Đại Thành là cửa của sự thành đạtlớn lao mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính mang một cái tên đấy ý nghĩa về học vấn,đạo đức.Hai bên cổng đại thành có 2 cửa phụ :kim thanh ở phía đông và ngọc chấn ở phía tây.đây là 2 lối vào sân đại bái và điện đại thành ,bởi ở đây trước kia chỉ tế Khổng Tử thì cổng đại thành mới mở.chúng ta đang đứng trên sân đại bái,trước mặt là toà đại bái và điện đại thành,2 bên là dãy nhà đông vu và tây vu.hai dãy nhà này đều gồm 9 gian.Trước đây 2 bên đều xây 5 bệ,trên có 5 khám bài thờ Thất Thập nhị hiền –đều là học trò của Khổng Tử.Kiến trúc cũ đã bị phá vỡ vào năm 1946,kiến trúc hiện nay đã được xây dựng lại năm 1954.Hiện nay ở đây trưng bày phòng tranh và bán đồ lưu niệm.Toà Bái Đường là nơi tổ chức các nghi thức tế lễ ,do vậy ở chính giữa đặt một hương án trên bày đồ thờ .Hai bên hương án có 2 con hạc đứng trên lưng rùa.hạc là biểu hiện cho sự tinh tuý, thanh cao.Hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện cho sự hài hoà giữa trời và đất,giữa hai cực âm dương.hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa còn thể hiện long thuỷ chung,biết tương trợ giúp đỡ nhau cùa những người bạn tốt khi gặp khó khăn.phía trên hương án có bức hoành phi :”Vạn Thế Sư Biểu”-người thầy tiêu biểu của muôn đời.4 chữ này do vua Khang Hy tặng cho Khổng Tử.và ở gian đầu hồi phía đông còn bức hoành phi “cổ kim nhật nguyệt” và chuông bích ung đều cửa tư nghiệp Quốc Tử Giám quận công Nguyễn Nghiễm là cha của Nguyễn Du làm 1768.bây giờ chúng ta tiếp tục đến với Điện Đại Thành.
Điện Đại Thành là nơi thờ Khổng Tử ,Tứ Phối và Thập Triết.
Gian chính là nơi thờ Khổng Tử .Khổng Tử (551-479TCN) là một nhà tư tưởng ,nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc.Ông sinh tai ấp Trâu,làng Xương Bình ,nước Lỗ(nay là huyện Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Khổng Tử là người sáng lập ra đạo nho ở Trung Quốc.chủ yếu dạy về đạo làm người.Trong khi Đức Khổng Tử được người đời tôn là Vạn Thế Sư Biểu thì Tứ Phối là các học trò của ông lại được phối hợp thờ tại các Văn Miếu ở Trung Quốc và Việt Nam.Họ là Nhan Hồi ,Tăng Sâm,Tử TưVà Mạnh Tử.
Theo cánh tay tôi,các bạn đang nhìn thấy tượng thờ Nhan Tử.là học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử ,đúng đầu trong khoa đức hạnh của của Khổng.Được người đời xưng tụng là Phục Thánh Nhan Tử.
Cạnh là Thuật Thánh Tử Tư(cháu nội của Khổng Tử).Tử tư không theo học trực tiếp với ông nội mà theo hoc Tăng Tử-một học trò cùa Khổng Tử.Tử Tư tạo nên một phái lớn trong Nho Giáo là phái tử tư.
Đối diện là tượng thờ Tông Thánh Tăng Tử và Á Thánh Mạnh Tử.
Là học trò duy nhất hiểu được đạo Nhất quán của Khổng Tử và viết nên sách Luận Ngữ.Tăng Tử cũng được đời sau tôn lên làm gương hiếu thứ 3 trong nhị thập tứ hiếu.
Mạnh Tử là học trò của Tử Tư.Ông là người soạn sách mạnh tử và lập ra thuyết tánh thiện(nhân chi sơ tánh bổn thiện).Nhười ta tôn Mạnh từ là bav65 thánh đúng hang thứ nhì dưói Khổng Tử.
Hai gian đầu hồi là 10 bia đá bài vị Thập Triết,là nhũng người tiêu biểu cho 4 khoa:Đức hạnh,ngôn ngữ,chính trị,văn học.
Sau đây xin mời các bạn đến tham quan khu nhà thái học.Nhà Thái Học với diện tích 1530m2,gồm các công trình kiến trúc chính là tiền đường,hậu đường,tả vu,hữu vu,nhà chuông và nhà trống.
Nhà tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học,là nơi tổ chức các hội nghị,hội thảo khoa học,văn hoá,nghệ thuật dân tộc.
Hậu đường là nơi thờ Chu Văn An-một ngưòi thầy đức cao vọng trọng.ông đỗ thái học sinh đời Trần nhưng không lên làm quan mà về quê dạy học,ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.Dưới triều Trần Minh Tông ông được mời ra dạy học cho thái tử Trần Vượng.đến triều vua Trần Dụ Tông,gian thần lộng hành.bị từ chối Thất Trảm sớ.Ông đã từ quan về ở ẩn tại ní phượng hoàng(chí linh,hải dương).ông mấy năm 78 tuổi,được truy tặng tước Văn Trinh Công,ban tên thuỵ là Khang Tiết và cho thờ ở Văn Miếu.
Theo tay tôi là 2 mô hình Văn Miếu-Quốc Tử Giám xưa và nay.
Văn Miếu ngày xưa có diên tích rộng,bao gồm toàn bộ khu vực của bệnh viện Sanh pôn và bảo tang mỹ thuật hiện nay và cả khu hồ văn rộng lớn.
Mời các bạn đến xem mô hình văn miếu-quốc tử giám.cùng với sự phát triển của đất nước thì khu vực này đã bị thu hẹp.Hiện nay diên tích của văn miếu-quốc tử giám chỉ còn 54331m2.còn kiến trúc được giữ lại trên nền đất nhà thái học gồm 2 tầng tầng 1 thờ Chu Văn An.Tầng 2 là nơi thờ 3 vị vua có công trong việc tu sủa và xây dựng văn miếu quốc tử giám là lý thánh tông,lý nhân tông và lê thánh tông.Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta.Trước đây chỉ có các vị Thái tử được học sau đó mở rộng quy mô hơn .Thời gian học tập là 3 năm, các thi sinh phỉa trải qua 3 cuộc thi :hương,hội,đình.
Xin mời các bạn đến với tầng 2 của nhà thái học.
ở gian chính giửa thờ vua Lý Thánh Tông,sinh năm 1023,ở ngôi được 17 năm,thọ 50 tuổi .ông là người đổi tên nước ta từ Đại cồ việt sang Đại việt.
Bên tay phải các bạn là bàn thờ Lý Nhân Tông.Ngài là người học trò đầu tiên của quốc tử giám(khi ông chỉ mới lên 5).lý nhân tông sinh năm 1066,mat năm 63 tuổi.ông ở ngôi được rất lâu(56 năm).năm 1076 ông đã cho phép triều đình lập ra quốc tử giám và cho chon những hiền tài vào đào tạo ,phục vụ cho đất nước.
Bên tay trái các bạn là tưọng thờ vua Lê Thánh Tông.Ông la 2người kế thừa và nâng cao tầm vóc của quốc từ giám.ông lên ngôi được 38 năm.được người đời đánh giá là minh mẫn,sáng suốt,thâm tuý về văn,giỏi giang về võ…
Ba vị vua là tinh hoa của thời kỳ phong kiến việt nam khi biết lấy sự học làm cái gốc cho sự nghiệp dựng nứơc và giữ nước.
Vâng thưa các bạn .vậy là tầng 2 của nhà thái học đã kết thúc buổi tham quan di tích văn miếu-quốc tử giám của chúng ta ngày hôm nay.
Tôi và các bạn đã cùng nhau đến với những giá trị nhân văn ý nghĩa,độc đáo.truyền thống hiếu học của dân tộc việt ta.đặc biệt là 82 tấm bia tiến sĩ,niềm tự hào của tinh hoa trí tuệ việt nam.
Qua buổi tham quan này các bạn đã có được những kiến thức về nền giáo dục việt nam.dồng thời nâng cao niềm tự hào của nòi giống tiên dòng.
Vâng,và trước khi kết thúc buổi tham quan xin hỏi có bạn nào có thắc mắc gì không.hướng dẫn viên sẽ giải thích trong tầm hiểu biết.
Nếu không có bạn nào đặt câu hỏi,tôi xin kết thúc buổi tham quan tịa đây.chúc các bạn có sức khoẻ dồi dào và những kiến thức bổ ích cho công việc học tập của minh
Xin chào và hẹn gặp lại.
-st