Tập làm văn lớp 8

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Đậu Thị Khánh Huyền

Thuyết minh về đền Cuông (xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) và chùa Cổ Am (xã Diễn Minh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An)

*Hai địa danh tách thành 2 bài riêng biệt nha các bạn

Giúp mình đi ạ, sáng mai mình phải nộp bài rồi ạ

Quốc Đạt
14 tháng 2 2019 lúc 19:23

TM đền cuông :

Diễn Châu (Nghệ An) được biết đến không chỉ là nơi sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng như Phùng Chí Kiên, Nguyễn Xuân Ôn, Đặng Văn Thụy, Cao Xuân Dục.. mà còn là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh. Theo thống kê trong số 91 di tích lịch sử văn hóa thì đã có tới 13 di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Một trong số các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng là Đền Cuông nơi gắn liền với Thục An Dương Vương – vị vua huyền thoại của lịch sử dựng nước thời xa xưa.

Đền Cuông thuộc địa bàn xã Diễn An, huyện Diễn Châu, cách thành phố Vinh khoảng 30 km về phía Bắc, nằm trên núi Mộ Dạ, một ngọn núi thuộc dãy Đại Hải, cận kề quốc lộ 1A. Đền Cuông là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng, đồng thời cũng là một danh thắng nổi tiếng – nơi kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thỏa thuận trước giữa tạo hóa và bàn tay con người.

Nhìn về tổng thể kiến trúc Đền Cuông được xây dựng theo kiểu chữ "Tam". Trải qua hàng nghìn năm, tam quan hiện nay đã chằng chịt rễ cây si leo bám, càng tạo nên nét cổ kính cho ngôi đền. Tòa trung điện theo kiểu chồng diêm 8 mái, các tòa khác trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút. Các công trình đều đồ sộ, cột to, tường dày vững chắc nhưng không thô vì các chi tiết, hoa văn được đắp, chạm tinh tế, mà lại toát lên vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát. Thượng điện đặt ban thờ Thục An Dương Vương, qua khoảng sân hẹp sang trung điện đặt ban thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua chế tác nỏ thần. Đền Cuông có nhiều di vật quý: trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí... Nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu nhắc nhở con cháu, muôn dân luôn nhớ ân đức Thục An Dương Vương.

Đền Cuông lược xây dựng trên một vị trí thông thoáng, giàu chất sử thi. Trên núi Mộ Dạ ngày nay là cả một cánh rừng thông bạt ngàn. Sau núi là biển cả mênh mông, ngày đêm rì rào sóng vỗ. Ở phía Bắc chân núi là cửa Tư Hiền gắn với sự kiện bi hùng của đất nước - nơi cha con Thục An Dương Vương trên đường chạy giặc gặp bước đường cùng đã được Rùa Vàng hiển linh rẽ sóng mở đường cho vua cha về với biển. Tục truyền ở trên núi này có hơn 50 tướng sĩ của vua Thục trong bước đường cùng đã tuẫn tiết ở đây. Theo truyền thuyết, sau khi chém Mỵ Châu, An Dương Vương phi ngựa lên đỉnh núi Mộ Dạ. Từ trên đó, Ngài đã cởi mũ, cởi cờ, cởi áo bào, tháo kiếm và yên ngựa rồi tung ra bốn phía. Kỳ lạ thay, tất cả các thứ đó biến thành 5 ngọn núi có hình giống như cái mũ, cái kiếm, chiếc vành khăn… châu tuần quanh núi Mộ Dạ. Không những thế, Ngài còn dẫm mạnh chân xuống một tảng trên đỉnh núi và để lại một vết chân rồi mới gieo mình xuống biển tự vẫn. Nơi ấy một thời gian sau nổi lên phiến đá có hình bàn cờ tướng và dân đi biển thi thoảng vẫn thấy hình bóng An Dương Vương cùng thần Kim Quy ngồi đánh cờ trên đó...

Thăm Đền Cuông trên núi Mộ Dạ bất chợt ngẫm câu thơ của Tố Hữu “... Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” lại thấy thương cho Mỵ Châu và mối tình oan nghiệt của nàng. Vào ngày đẹp trời, đứng trên núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra bốn phương mới thấy được hết những điều kỳ thú của một vùng non xanh nước biếc hữu tình. Sách xưa đã từng liệt kê trong số 8 cảnh đẹp của “Đông Yên Nhị Châu” (vùng đất thuộc tổng Yên Thành xưa) thì có 6 cảnh đẹp thuộc về Diễn Châu, một trong số các cảnh đẹp đó là Dạ Sơn Linh Tích (Dấu thiêng núi Mộ Dạ).

Hằng năm, vào các ngày 14, 15,16 tháng Hai âm lịch diễn ra lễ hội Đền Cuông. Đây là lễ hội lớn không chỉ của cộng đồng cư dân vùng Diễn Châu mà còn cả đối với cộng đồng cư dân cả nước để nhớ tới ân đức của Thục An Dương Vương. Vào dịp lễ hội, khách thập phương ở mọi miền đất nước tụ hội về đây. Những người con Diễn Châu xa quê cũng cố gắng thu xếp để về thăm quê vào đúng dịp này. Theo lễ tục, chiều ngày 14 tháng Hai là Lễ yết cáo để tạ ơn Thục An Dương Vương và trời đất; đêm ngày 14 là Lễ yến vị diễn ra mang đậm màu sắc tâm linh đồng thời phản ánh rõ nét văn hóa ẩm thực của cả vùng; sáng ngày 15 diễn ra hoạt động khá quan trọng của lễ hội Đền Cuông, đó là phần rước kiệu từ đình Xuân Ái (Diễn An), nhà thờ họ Cao (Diễn Thọ) ra Đền Cuông, lễ rước thường diễn ra rất sôi động, thu hút sự chú ý của mọi người; chiều 15 tháng Hai là phần Lễ tạ…

Sau phần lễ tục là phần hội, phần này diễn ra từ ngày 15 đến hết ngày 16 tháng Hai âm lịch. Ở lễ hội Đền Cuông, có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ người, vật, đánh đu... cùng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như hát chầu văn, thi nét đẹp Đền Cuông, bóng bàn, kéo co, chọi gà, leo núi...

Người dân Diễn Châu cũng như người dân khác trong tỉnh và cả nước đến với lễ hội Đền Cuông không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi nhớ đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Nhận ra sự thật, vua chém con gái yêu rồi theo thần Kim Quy đi về phía biển… Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại đó là một Đền Cuông linh thiêng và lòng ngưỡng vọng của nhân dân cũng đủ để rút ra bao điều đáng chiêm nghiệm…

Đến với lễ hội Đền Cuông du khách còn có thể đi thăm các chứng tích, nhất là các địa danh như núi Kiếm, núi Đầu Cân ở xã Nghi Thiết (Nghi Lộc), núi Mụa (núi Mũ) ở xã Diễn Phú, núi Mã Yên (Yên Ngựa) ở xã Diễn Thọ (Diễn Châu)... Đến với Đền Cuông là đến với một danh thắng có nhiều phong cảnh đẹp, đắm trong huyền thoại thiêng liêng đậm chất bi hùng lịch sử. Đó cũng là cách trở về cội nguồn, được hòa mình vào hồn thiêng sông núi của nước non Âu Lạc.

Quốc Đạt
14 tháng 2 2019 lúc 19:24

Chùa Cổ Am :

Chùa Cổ Am còn gọi là Lưỡng Kiên Sơn, vì đứng xa xa trông giống như một chàng dũng sĩ hiên ngang. Chúa Trịnh Tĩnh Vương gọi núi này là Di Lặc Sơn. Trong lèn có nhiều hang động như: Hang Thần Đồng, hang cố Nguyên, hang Dơi, hang Khòm, hang Chuồn Chuồn, hang Cá Chép… Ngày nay, lèn Hai Vai vẫn còn giữ được nét cổ kính và gắn với nhiều sự tích.

Chùa Cổ Am xen giữa muôn hình của những phiến đá lô nhô xô chồng chéo lên nhau, một cảnh đẹp đẽ như có bàn tay ai sắp đặt là những sắc, hương của muôn loài thảo mộc và những hang động với những hình thù kì dị. Lèn có rừng cây rậm rạp với nhiều loài chim, thú sinh sống. Núi đá, rừng cây, mái chùa, hang động tạo thành một quần thể thiên nhiên đẹp đẽ.

Ở giữa lưng chừng núi, nép mình dưới những rặng cây là một ngôi chùa cổ kính gọi là Cổ Am. Theo những hàng chữ nho khắc trên cột đá trước chính điện thì chùa Cổ Am được xây dựng từ đời vua Minh Mạng thứ 11. Theo trí nhớ của các cụ già: Chùa Cổ Am trước đây có bậc lên xuống bằng đá chẻ (ngày nay vẫn còn sót lại 1 số viên), thượng điện và bái đường tọa lạc ở lưng chừng núi, xung quanh có núi và cây bao bọc tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ, tiền chu tước, hậu huyền vũ” là vị trí lý tưởng của phong thủy. Chùa Cổ Am làm bằng gỗ, mái lợp ngói vảy, trong chùa trước đây có rất nhiều tượng Phật bằng gỗ rất đẹp và một số sắc phong.

Như vậy, từ rất lâu người dân Diễn Châu đã nhận thức sâu sắc về đạo Phật “Một tôn giáo cao đẹp nhất toàn cầu”. Cho nên, người xưa xây chùa Cổ Am là để truyền bá nền văn hóa tâm linh của đạo Phật đến với cộng đồng dân cư, giáo dục con người hoàn thiện cả về chân, thiện, mỹ.

Trải qua nhiều thời gian, đất nước này đã có nhiều biến cố lịch sử, với tên bay đạn lạc, chiến tranh nhưng tại đây vẫn ít bị ảnh hưởng, phải chăng nhờ có ngôi chùa với tiếng tụng kinh, niệm Phật đã mang đến sự bình yên cho mảnh đất Diễn Châu này.Trải qua nhiều năm, đất nước này đã có nhiều biến cố lịch sử, với tên bay đạn lạc, chiến tranh, chùa Cổ Am đã bị hư hỏng nặng, chỉ còn lại những dấu tích nguyên trạng của phần móng, các bộ phận kiến trúc đổ vỡ và một số hiện vật như: bia đá, lư hương đá, chuông đồng…thậm chí đường lên xuống cũng bị xói lở và cây che phủ. Mặc dù, cán bộ và nhân dân trong vùng đã sửa chữa 2 lần vào năm 1998 và 2008, nhưng do kinh phí còn hạn hẹp nên chưa thể phục dựng được chùa đúng quy mô vốn có.


Các câu hỏi tương tự
Khánh Huyền
Xem chi tiết
Vân Nguyễn
Xem chi tiết
Đức Nguyễn Minh
Xem chi tiết
Trần Hà Hà
Xem chi tiết
nguyễn thảo my
Xem chi tiết
HELLO MỌI NGƯỜI
Xem chi tiết
Nguyễn Ngọc Tuyết Ngân
Xem chi tiết
Mong Meo
Xem chi tiết
Gà Chimta
Xem chi tiết