Tập làm văn lớp 8

tôn hiểu phương

thuyết minh bài thơ đi đường của Hồ chí minh

Hồng Quang
25 tháng 2 2018 lúc 20:27

Trong những ngày bị tù đày, Hồ Chí Minh bị áp giải qua nhiều nhà lao. Theo Trần Dân Tiên trong những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch thì Người bị giam giữ trong gần ba mươi nhà lao huyện và xã. Chuyện đi đường là việc xảy ra hằng ngày. Có chặng đường mà người đi thật dễ chịu trong khung cảnh chim ca rộn núi hương bay ngát rừng (Trên đường đi) nhưng phổ biến hơn là những chặng đường vất vả, đi đường giữa những ngày giá lạnh, đi đường núi non hiểm trở. Bài thơ Đi đường mở đầu cho hành trình bị áp giải:

Đi đường mới biết gian lao

Đây là kinh nghiệm của người đã nhiều lần lên đường, ra đi. Có đi đường mới có những kinh nghiệm về chuyện đi đường. Đây lại không phải là con đường bằng phẳng mà là một chặng đường núi non hiểm trở:

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.

Với Đi đường, tác giả hiểu rõ đường đời khó khăn. Đường đời đây cũng là con đường đấu tranh cách mạng và người chiến sĩ cách mạng là người đi đường, không mệt mỏi. Chấp nhận và vượt lên những khó khăn, người đi đường bao giờ cũng hướng tới đích:

Giầy rách đường lầy chân lấm láp Vẫn còn dấn bước dặm đường xa

Trong bài thơ Đi đường, những khó khăn thật chồng chất, càng ngày càng nhiều và nâng lên đến cao điểm. Câu thơ như một thử thách:

Núi cao lên đến tận cùng

Người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua được thử thách và chiến thắng. Trên cao điểm thắng lợi, biết bao tình cảm vui mừng được biểu hiện. Mừng vui vì đã chiến thắng được khó khăn, vì Người đã làm tròn trách nhiệm được giao phó.

Trên đỉnh cao, con người có những cảm xúc đặc biệt:

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

Có thể quan sát và bao quát nhiều phạm vi của đời sống. Đôi mắt không còn bị hạn chế trong tầm nhìn mà đã được mở rộng, thâu tóm được biết bao cảnh vật.

Ngô Thị Thu Trang
25 tháng 2 2018 lúc 21:17

Bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) trích từ tập Nhật kí trong tù. Giống như một số bài có cùng chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi, khác ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngoài ý nghĩa hiện thực, bài thơ còn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,
Trùng san chi ngoại hựu trùng san;
Trùng san đăng đáo cao phong hậu,
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
Dịch ra thơ tiếng Việt:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

phan tich bai tho di duong cua Ho Chi Minh

Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tác nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ. Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan (Đi đường mới biết gian lao)

Đây không phải là nhận xét chủ quan chỉ sau một vài chuyến đi bình thường mà là sự đúc kết từ hiện thực của bao hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua. Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối… với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng như quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành chuyện đi đường.

Câu thơ thứ hai cụ thể hóa những gian lao trên đường đi thành hình ảnh: Trùng san chi ngoại hựu trùng san (Núi cao rồi lại núi cao trập trùng) Giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ toàn là núi cao nối tiếp núi cao, con người vốn nhỏ bé, yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt. Đường xa, dặm thẳm, vực sâu, dốc đứng… biết bao trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Bởi vừa vượt qua mấy đỉnh núi cao, sức tinh thần, vật chất đã vơi, con người tưởng đã thoát nạn, ngờ đâu lại núi cao trập trùng chặn đứng trước mặt. Trong câu thơ chữ Hán có chữ hựu ác nghiệt, lời dịch nhân cái ác nghiệt ấy lên gấp đôi: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. Gian lao kể sao cho xiết! Cấu trúc khép kín ở câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu trùng san), chuyển sang kết cấu trùng lặp tăng tiến, vế sau nặng trĩu thêm bởi từ trập trùng ở cuối, cấu trúc khép kín và trùng lặp tăng tiến ấy dường như đẩy con người vào cái thế bị hãm chặt giữa ba bề bốn bên là rừng núi, không thoát ra được, chỉ có kiệt sức, nhụt chí, buông xuôi. Nhưng đối với Bác thì hoàn toàn ngược lại: Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lí dư đồ cố miện gian. (Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)

Giữa vòng vây núi non trập trùng, chất ngất, hoang vu đó nổi lên điểm sáng, điểm động là con người với vẻ ngoài tuy nhỏ bé, yếu ớt nhưng bên trong lại là một nghị lực, sức mạnh phi thường.

Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh trùng san, câu thơ sau mở đầu cũng bằng hình ảnh ấy. Trong thơ dịch không liền như thế nhưng cũng lặp được núi cao… núi cao… Âm điệu ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Đạp lên đỉnh núi cao này bước sang đỉnh núi cao kia như đi trên bậc thang, cứ thế từ tốn lên đến đỉnh cao chót vót. Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ hậu, tạo nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm: Núi cao lên đến tận cùng. Đến đây thì mọi gian lao, vất vả đã khép lại; kết quả, phần thưởng xứng đáng mở ra. Lúc trước là mắt chạm vào vách núi cao thẳng đứng, chỉ toàn đá và cây; nay thì mắt nhìn bốn phương, đâu đâu cũng thấy muôn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Leo lên đến tận cùng, đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa, không những tầm nhìn mở rộng mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Con người đã đến đích sau cuộc hành trình muôn vàn gian khổ. Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Cảnh muôn trùng nước non giờ đây đã thu gọn trong tầm mắt Bác. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó. Vậy thì có phải bài thơ này chỉ đơn giản nói đến chuyện đi đường? Đi đường không phải chỉ có gian nan vì núi cao trập trùng mà còn có bao khó khăn nguy hiểm khác. Hình ảnh núi cao trập trùng tượng trưng cho vô vàn khó khăn, nguy hiểm mà con người thường gặp trong đời. Cho nên đường ở đây không phải là con đường đỉ trên mặt đất mà nó chính là đường đời, đường cách mạng. Liệu có mấy ai suốt đời chỉ toàn gặp thuận buồm xuôi gió, thẳng một lèo đến thắng lợi, thành công? Trở ngại, nguy nan là chuyện thường tình. Muốn vượt qua tất cả, con người phải có một ý chí kiên cường, nội lực phi thường cùng một niềm tin không gì lay chuyển nổi. Như vậy mới có thể đạt được chiến thắng vinh quang. Thắng gian lao nguy hiểm và cao hơn nữa là chiến thắng chính mình. Nếu con đường đó là con đường cách mạng thì chân lí tất yếu nêu trên lại càng sáng tỏ. Cuộc đời phấn đấu, hi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương chói lọi. Trên con đường cách mạng đầy chông gai, sóng gió, với trí tuệ sáng suốt, ý chí và nghị lực tuyệt vời, Người đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian lao, thử thách để lên đến đỉnh cao vinh quang của thời đại. Từ chuyện đi đường tưởng như rất đỗi bình thường, người chiến sĩ cộng sản lão thành Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta một bài học nhân sinh thiết thực và bổ ích.
Nguyễn Tử Đằng
25 tháng 2 2018 lúc 21:19

Đi đường là một hành động thường xuyên của bất kỳ một con người bình thường nào trên thế gian này. Nhưng đối với các nhà thơ, nhà văn lớn, các bậc hiền triết vĩ nhân, đi đường còn là cơ hội để tìm ra những chân lý, đạo lý lớn của cuộc đời. Năm 744, Lý Bạch (701 – 762), một nhà thơ lãng mạn cổ điển Trung Hoa thời Đường, quyết không chịu "khom lưng cúi mày phụng sự bọn quyền quý" đã đi trên con đường trắc trỏ' khó khăn ngay sau khi rời khỏi cung đình và trước lúc rời khỏi kinh đô Trường An mà vẫn tràn đầy khí phách, hoài bão lớn lao. Còn năm 1942-1943, Hồ Chí Minh đi đường trong cảnh "tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích, có sáu người lính mang súng giải đi (…) dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua sông…" nhưng vẫn ung dung đề thơ:

TẨU LỘ

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,

Trùng san chi ngoại hựu trùng san.

Trùng san đăng đáo caophong hậu,

Vạn lý dư đồ cố miện gian.

' '(Nhật ký trong tù)

Dịch nghĩa:

Có đi đường mới biết đường đi khó,

Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác.

Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót,

Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

Dịch thớ:

ĐI ĐƯỜNG

Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lèn đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

(Nam Trân dịch)

Bài thơ trên được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, được Nam Trân dịch sang thể thơ lục bát. Vì vậy, khi tìm hiểu bài thơ, chúng ta cần đối chiếu cả bã bản: phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ.

Câu khai đã bắt đầu mở cửa bài thơ:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"

(Có đi đường mới biết đường đi khó)

Lời thơ như một lời nói, lời nhận xét thật giản dị. Nhưng không phải hiên nhiên Hồ Chí Minh thốt lên như thế. Hồ Chí Minh có cùng ý nghĩ với nhà thơ Lý Bạch cách đây khoảng 1200 năm:

"Đường đi khó! đường đi khó!

Nay ở đâu! đường bao ngả!"

(Đường đi khó)

Cái khó của từng con đường đã là một thách thức lớn. Cái khó của việc chọn con đường còn khó hơn nữa. Đường có biết bao nhiêu ngả nhưng mình ở đâu, mình chọn ngả nào bầy giờ. Đó mới là cái khó hàng đầu.

Ngoài những cái khó như Lý Bạch, Hồ Chí Minh còn gặp cái khó khác khi đi đường: "Mỗi buổi sáng, gà gáy đều, người ta giải cụ Hồ đi. Mỗi buổi chiều khi chim về tổ, người ta dừng lại trong một địa phương nào đó, giam Cụ vào trong xà lim trên một đống rạ bẩn, không cởi trói cho cụ ngủ". Cụ Hồ tiếp tục đi, bị trói và bị xích như

thế trong hơn 80 ngày. Cụ đã trải qua gần 30 nhà tù xã và huyện, cuối cùng cụ đến Quế Lâm. Từ Quế Lâm người ta giải cụ đi Liễu Châu, giam trong nhà giam quân sự. (theo Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch). Có thể nói rằng, câu khai còn là một vấn đề chân lý được Hồ Chí Minh rút ra trong thực tế "đi đường", nằm ngoài tầng nghĩa đen: đi đường.

Câu thừa nối tiếp mạch chảy của bài thơ và nâng cao phát triển ý của câu khai:

"Trùng san chi ngoại hựu trùng san".

(Hết lớp núi này, lại tiếp đến lớp núi khác)

Phép điệp trùng san (lớp núi) đã miêu tả nỗi vất vả hiểm nguy của việc đi đường càng lúc càng chồng chất. Ở câu thừa này, bản dịch thơ: "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" chưa thể hiện đúng ý nghĩa của nguyên tác: "lớp núi" chứ không phải "núi cao". Mặc dù gặp nhiều khó khăn như vậy nhưng người chiến sĩ cách mạng kiên cường ấy không hề thốt lên một lời than vãn nào. Trái Lại phép điệp "trùng san" đã làm tăng thêm sức mạnh, sức bật cho bài thơ.

Câu chuyển:

"Trùng san đăng đáo cao phong hậu".

(Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót)

đã làm cho bài thơ thêm dạt dào xúc cảm, đồng thời thể hiên một ý chí bền bỉ không hề khuất phục trước hoàn cảnh khó khăn. Ý thơ này gợi cho chúng ta nhớ đến câu nói bất hủ của Disraeli: "Con người đâu có phải là sự tạo nên của hoàn cảnh, hoàn cảnh là sự tạo nên của con người".

Vì Hồ Chí Minh là bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng" nên bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào Người cũng giành phần thắng lợi:

"Vạn lý dư đồ cố miện gian"

(Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt)

Sau một chặng đường dài mòn mỏi cả đôi chân, Người đã về đến đích. Một bức tranh thiên nhiên mênh mông, tươi- đẹp chốn núi non bát ngát, hùng vĩ được thu gọn trong tầm mắt Người. Ớ câu hợp này, thiên nhiên lớn lao hay tâm hồn Bác lớn lao? Chính ý chí, nghị lực và lý tưởng cao vời của Người đã làm rung động-nàng chục triệu con

tim. Bổi vậy khi viết "Lời tựa" bản dịch Nhật ký trong tù ra tiếng Tây Ban Nha, Félix Pita Rodriguez đã hết lời khen ngợi: "Đi vào Nhật ký trong tù, cái toà nhà bằng ngôn ngữ vững chắc và đẹp, người ta có cảm giác mỗi bước đi đều chạm vào gốc rễ sâu xa của một trong những con người kỳ diệu ít có, những con người như những tảng đả lớn làm nền cho nhăn loại, những con người qua cuộc đời mình đã dạy cho mọi người hiểu rằng dôi với con người, không có đỉnh cao nào là không thể đạt tới".

Có thể nói rằng, bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh có hai tầng nghĩa: nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Tầng nghĩa tường minh như nguyên văn bài thơ. Tầng nghĩa hàm ẩn chất chứa sau câu chữ của bài thơ, muốn nói đến con đường cách mạng gian khổ, lắm chông gai và lực cản. Do đó, con người cần phải bền lòng, vững chí, cần lao chiến thắng bản thân để’ tiến tới thành công.

Tóm lại, bài thơ Đi đường được Bác viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật chỉ vỏn vẹn có 28 chữ nhưng ý nghĩa triết lý, ý nghĩa nhân sinh của bài thơ toát lên rất sâu xa. Mặt khác, qua bài thơ, chúng ta còn thấy được "một hình mẫu cao đẹp của con người mới trong thời đại mới,…, một tấm gương tuyệt vời về người cộng sản".




Các câu hỏi tương tự
Trúc Quỳnh
Xem chi tiết
Trần Thị Thùy Dương
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Như Quỳnh
Xem chi tiết
Ctuu
Xem chi tiết
37 Phi
Xem chi tiết
Huỳnh Thị Kim Hương
Xem chi tiết
Đoàn Thị Thanh hải
Xem chi tiết
Hoàng Cúc Phan Thị
Xem chi tiết
Kiên Đặng
Xem chi tiết