BIỂU CẢM VỀ NGƯỜI THÂN
Ngay từ khi còn nhỏ, ắt hẳn ai trong chúng ta cũng từng nghe qua câu thơ này:
“Công cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.”
Đúng vậy! Tình yêu thương mà cha mẹ đối với con cái là vô bờ bến, là điểm tựa bình yên để chúng ta trở về sau những va vấp trong cuộc sống. Và hôm nay, tôi muốn dành tất cả tình cảm của mình cho người mẹ đã khổ cực suốt đời vì con.
Mẹ tôi xuất thân từ gia đình làm nông nên mẹ đã sớm chịu vất vả từ nhỏ. Đến khi lập gia đình, sinh con đẻ cái, những vất vả gian lao của mẹ lại như thêm chồng chất. Nhìn làn da mịn màng thời thiếu nữ của mẹ giờ đây khô ráp sạm nắng, đôi bàn tay sần sùi vết chai, cả mái tóc đã điểm vài sợi tóc bạc,…mà tôi không khỏi chạnh lòng. Nhưng, điều làm tôi buồn nhất khi nhìn thấy chính là đôi mắt của mẹ. Mắt mẹ giờ đây đã nhuốm màu mệt mỏi với những quầng thâm nơi mi mắt. Mẹ cơ cực là vậy, chăm chỉ làm lụng là vậy cũng chỉ mong mang lại hạnh phúc cho tổ ấm bé nhỏ của mình.
Hàng ngày, mẹ phải dậy sớm ra đồng làm việc tới tận trưa đứng bóng mới về. Tấm lưng của mẹ ướt đẫm mồ hôi, mẹ với tay cầm chiếc quạt lá mà phe phẩy để xua tan cái nóng oi bức đang vây bủa. Ấy vậy mà, vừa về đến nhà, mẹ lại phải đi chợ rồi nấu ăn cho cả gia đình. Vất vả là thế nhưng mẹ luôn đối xử dịu dàng với chị em chúng tôi. Mẹ ân cần chăm từng miếng ăn cho em nhỏ, ân cần hỏi han việc học tập của người chị lớn. Mẹ không quan tâm mình vất vả ra sao mà chỉ để ý hôm nay các con đã ăn học như thế nào. Nhìn nụ cười hiền hậu, đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc của mẹ khi chăm sóc chúng tôi, lòng tôi lại trào dâng một tình cảm bao la dành cho người phụ nữ giàu đức hi sinh ấy.
Ngày bé tôi hay nghịch ngợm, bị mẹ mắng, tôi đã rất ghét mẹ. Tôi tự hỏi tại sao mẹ lại có thể mắng con của mẹ như thế rồi khóc rấm rứt khi không có mẹ. Còn bây giờ, khi đã lớn hơn, tôi lại thắc mắc vì sao mẹ lại có thể hi sinh cả cuộc đời mình vì chồng vì con như thế. Mất đi tuổi thanh xuân, mất đi vẻ đẹp mặn mà của người phụ nữ, lại phải làm việc chăm chỉ để vun vén cho gia đình, hẳn mẹ đã rất mệt mỏi! Thế nhưng, mẹ không hề than phiền lấy một câu. Đối với mẹ, nhìn thấy gia đình êm ấm, đàn con ăn học tới nơi tới chốn là mẹ đã mãn nguyện lắm rồi. Chỉ cần nghĩ tới đôi tay chai sần của mẹ, rồi nụ cười hiền từ thấm đẫm gian truân, lòng tôi không khỏi bồi hồi, xót xa để rồi tình thương tôi dành cho mẹ lại ngày một sâu đậm.
Mai này khi tôi đã trưởng thành, có đủ khả năng để bước ra ngoài thế giới, tôi vẫn luôn muốn trở về quê hương. Bởi vì nơi đó có cánh đồng rộng lớn, có khóm tre mát rượi gắn với tuổi thơ, và quan trọng hơn hết, mẹ vẫn luôn đứng đó, đợi tôi trở về.
Thế mà đã hai năm kể từ ngày ông ra đi, nhanh thật. Thời gian không thể xóa đi kỉ niệm về ông, về tình yêu ông dành cho cháu, những ngày tháng tươi đẹp khi mà cháu chưa mất ông nhưng nó cũng đã xóa đi phần nào nỗi đau, nỗi nhớ và lòng xót xa của cháu. Ôn đã ra đi thật nhẹ nhàng và thanh thản, tưởng như chỉ là một giấc mơ, nhưng nào có phải và nỗi đau lại quặn thắt trong lòng.
Nhưng thôi, khi nhắc về ông, không nên nói đến những nỗi buồn, bởi nhắc đến ông là nhắc đến một tấm gương sáng ngời về nghị lực, ý chí vượt lên trên khó khăn và thêm vào đó là một tài năng và những phẩm chất tuyệt vời.
Cuộc đời ông luôn gặp nhiều khó khăn, bất trắc, nhiều trở ngại to lớn nhưng không gì có thể ngăn cản ông vượt lên. Lên bốn tuổi, cái tuổi mà con người ta mới bập bẹ nói, lững chững tập đi, ông đã không còn bố nữa. Vài năm sau, mẹ ông cũng ra đi và nằm lại nơi nào ông cũng không biết. Người ta nói:
“Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi má lót lá mà nằm”
Thế mà chỉ mười năm đầu đời, ông đã không còn cả cha lẫn mẹ. Đau khổ là thế, nhưng đến năm 20 tuổi ông vẫn là một trong những học sinh xuất sắc của thành phố Huế. Hoạt động cách mạng, bị giặc bắt, tra tấn dã man, hành hạ đánh đập tàn bạo để đến mấy chục năm sau ông vẫn chịu di chứng: đó là căn bệnh suyễn. Và chắc chắn rằng nếu ông có những trận đòn ác liệt ấy thì đến hôm nay, lúc cháu đang viết những dòng này, có thể ông vẫn ngồi bên và mỉm cười với cháu, một nụ cười chất phác, hiền hậu mà cháu đã mất… Giữ vững những phẩm chất của một Đảng viên Cách mạng, ông được ra tù, thế nhưng không được đền đáp mà ông còn bị nghi ngờ, bị coi là lí lịch không rõ ràng. Bất công đến như thế nhưng ông vẫn sống, sống cho đời, làm việc cho đất nước và đã khẳng định được mình, ông làm nghề nhà giáo, trở thành Hiệu trường của trường Đại học sư phạm Huế và những học trò của ông hiện nay không thiếu những người thành đạt, trở thành hiệu trưởng của trường này, thứ trường kia. Ông không chỉ là tình yêu, là người ông mà còn là niềm tự hào lớn lao của cháu, còn nhứ khi cháu mới bốn, năm tuổi gặp bạn bè cháu khoe rằng: “Tao không biết ba tao làm nghề gì, nhưng ông tao là một nhà khoa học”. Đối với cháu lúc áy, ông là to lớn nhất, giỏi giang nhất, vì đại nhất, ông là “một nhà khoa học” cơ đấy. Rồi thì lớn lên, hiểu rõ về ông hơn, cháu lại càng tự hào hơn khi cháu học lớp bảy, lớp của cháu có sử dụng cuốn sách mà ông viết. Cháu vẫn không sao quên được niềm sung sướng khi chỉ tay vào cuốn sách và hỏi: “Chúng mày có biết cuốn sách này của ai viết không? Ông tao đấy, ông tao chính là người viết cuốn sách này”. Và nhìn những đứa bạn trố mắt, trầm trồ đọc ba chữ “Lê Đình Phi” cháu cảm thấy lòng mình lâng lâng. Ôi thật tự hào và hạnh phúc biết bao! Nay, ông không còn nữa, những niềm tự hào ấy vẫn sẽ theo cháu suốt cuộc đời.
Nhưng có tự hào bao nhiêu cháu vẫn ước gì mình được như xưa, được có ông bên cạnh, chỉ bảo ân cần. Nhớ sao những ngày xưa ấy, ông dắt tay cháu đi bộ trên đài Nam giao, chỉ cho cháu xem những ông Phật đứng, Phật nằm, kể cho cháu nghe những câu chuyện thật hấp dẫn. Hay chỉ cách đây vài năm, ông vẫn ngồi trên ghế nhựa, phe phẩy chiếc quạt, hỏi han, trò chuyện cùng cháu, cười với cháu và đố cháu những bài toán nho nhỏ. Ở nơi ông cháu luôn tìm thấy chốn yên bình nhất, thanh thản nhất. Ba mẹ có đôi khi giận dữ la mắng, đánh đập khi cháu hư. Những lúc ấy, cháu lại chạy đến với ông, lại ngồi cạnh ông, cười với ông, gần ông cháu lại thấy quên đi tất cả nỗi buồn.
Nhưng nay! Cháu đã mất ông rồi! Hụt hẫng làm sao, đau đớn làm sao! Cháu không còn chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất. Lấy ai an ủi cháu và để cháu tâm sự? Buồn quá! Biết làm sao đây.
Ông ơi! Ở trên ấy ông có nghe những lời cháu không ông? Chắc chắn ông sẽ nghe được rằng cháu thật lòng yêu ông! Yêu ông nhiều lắm!
Cây đa rất dễ trồng, dễ sống dù ở những mảnh đất khô cằn, ít dinh dưỡng nhất nó vẫn có thể phát triển xanh tốt, cũng có lẽ chính vì đặc điểm dễ nuôi, dễ trồng, thích nghi với mọi loại đất của cây đa mà ở vùng quê nào trên lãnh thổ Việt Nam cũng trồng cây đa. Cây đa không ra quả nhưng do tán lộng,lá lớn có khả năng che mưa, che nắng, rợp bóng râm cho làng mà người ta ưa thích trồng đa trong làng, trong khuôn viên của gia đình nhà mình. Thân cây đa lớn, cành lá um tùm, tán rộng, lá to. Những chiếc lá to có đường kính khoảng mười đến mười lăm cen ti mét, mặt lá bóng bẩy, đường gân lá rõ ràng và lá thường có màu xanh đậm.
Nhiều lá to còn được nững người nông dân dùng làm quạt để quạt mát sau mỗi giờ lao động nóng bức, mệt mỏi. Cây đa cũng là nơi mà những người nông dân lựa chọn để nghỉ ngơi lấy sức để có sức khỏe tiếp tục lao động. Nhất là những cây đa ở gần cánh đồng, vào mỗi mùa vụ thì cây đa chính là một địa điểm lí tưởng dùng để nghỉ ngơi lấy sức, bóng râm, không khí trong lành và những cơn gió mát trên ngọn cây làm cho mọi người cảm thấy thoải mái, thư thái sau mỗi giờ làm việc vất vả. Và dưới gốc cây đa, mọi người cùng nhau chia sẻ những câu chuyện về cuộc sống, về nhân tình, những mẩu chuyện vặt vãnh thường ngày nhưng khi được chia sẻ nó lại trở nên hết sức thú vị.
Cùng với mái đình, giếng nước, cây đa chính là nơi thường xuyên tập trung và diễn ra các hoạt động sinh hoạt văn hóa của một làng, xóm, địa phương nào đó. Đó là vào các buổi tối, khi các hoạt động lao động sản xuất khép lại thì lại mở ra không gian thư thái sinh hoạt cộng đồng. Dưới cây đa, mái đình những người dân trong một làng sẽ tụ tập nhau lại cùng nhau hát hò, nhảy múa, chơi các trò chơi dân gian thú vị, điển hình như nhảy cò, bịt mắt bắt dê, hát đối đáp…mọi người đều tham gia vô cùng tích cực, nhiệt tình, niềm vui, tiếng cười chính là thứ cuối cùng họ cảm nhận được sau khi kết thúc buổi sinh hoạt để trở về nhà.
Trong văn học nghệ thuật, hình ảnh cây đa, giếng nước, mái đình thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm văn chương, thể hiện được các khía cạnh của làng quê, của con người Việt Nam. Trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng đề cập đến những hình ảnh quen thuộc này, nó biểu tượng cho quê hương, cho tình yêu của những người lính dành cho quê hương của mình:
“…Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính…”
Như vậy, hình ảnh của cây đa đã gắn liền với nông thôn, nông dân, con người Việt Nam, nó gắn liền với không gian văn hóa của cả một cộng đồng, là minh chứng sống cho những bản sắc của con người Việt Nam, và cũng tự bao giờ cây đa chính là hình ảnh phản chiếu trong tâm thức của mỗi người Việt Nam.
Tả cây hoa hồng
Trước nhà em có mấy chậu hoa hồng. Mẹ em mua mấy cây hồng đó cách đây chừng một tháng. Nay chúng đã ra hoa, những đóa hồng nhung đỏ thắm.
Nhờ công chăm sóc của mẹ, các cây hồng đều rất tươi. Thân chúng không cao nhưng cành thì mập mạp, xòe ra cả ngoài thành chậu. Những chiếc lá hồng xanh mướt to bản, có răng cưa, đầu hơi nhọn, càng gần cuối cành càng nhỏ lại. Cánh hồng tuy bé nhưng trông rất dẻo dai. Trên lớp vỏ cây xanh rờn những chiếc gai nhọn hoắt mọc lởm chởm như những người lính giương súng sẵn sàng bảo vệ cho cây.
Trên cành hồng lớn nhất vươn lên từ giữa thân cây, một đóa hoa hồng nở. Một cuống hoa dài và mảnh từ cành nhô lên đỡ lây chiếc đài hoa xanh biếc. Trên cái đài hoa ấy, những cánh hồng xinh xắn, mềm mại xếp chồng lên nhau thành nhiều lớp.
Mỗi sáng sớm, hoa chưa nở hết, cánh hoa còn ôm khít vào nhau như cùng nhau che chở cho nhị hoa khỏi bị sương gió. Thế mà, đứng bên bông hoa ấy, em đã thấy hương hoa hồng tỏa thơm ngào ngạt. Trên màu hoa đỏ thẫm và mượt như nhung, lấm tấm mấy hạt sương lấp lánh những tia nắng sớm.
Thảo nào người ta thường thích hoa hồng đến vậy: hoa hồng vừa đẹp lại vừa thơm. Mặt trời càng lên cao, những cánh hoa càng xòe rộng, cho đến khi cả đóa hoa như một chiếc đĩa nhỏ được tạc bằng ngọc. Khi ấy, hương
hoa cũng thơm lừng. Rồi cánh hoa nhạt màu và lần lượt rã ra, rụng xuống. Mẹ em dùng kéo cắt bông hoa ấy đi, chừa chỗ cho một nụ hoa mới, mũm mĩm như một trái sim chín, chỉ vài hôm nữa là nở.
Sân nhà em không rộng, mẹ em không có nhiều tiền để mua được nhiều hoa. Tuy chỉ có mấy cây hoa hồng bé nhỏ, ngôi nhà mẹ hình như cũng nhờ thế mà đẹp ra, vui hơn
1
Đầu làng em có một cây đa có lẽ đã vài trăm tuổi. Thân cây lớn lắm! Rễ đa ngoằn ngoèo như những con trăn khổng lồ uốn khúc. Xung quanh gốc chính là hàng chục gốc phụ khiến cho cây thêm bề thế và vững chãi. Cách xa hàng cây số đã nhìn thấy bóng đa cao vượt khỏi lũy tre làng, sừng sững in trên nền trời xanh biếc.
Bóng đa che mát một khoảng đất rộng. Chim chóc làm tổ trên cành, suốt ngày ríu rít. Đang đi trên đường nắng chang chang, khách ghé vào quán tranh nghỉ chân, uống một bát nước chè xanh hãm đặc, tận hưởng cơn gió nồm nam lồng lộng thổi, quả là không có gì sung sướng bằng, bao nhiêu mỏi mệt đều tan biến hết.
Tuổi thơ chúng em cũng tìm được ở cây đa nhiều điều kì thú. Lá đa to, dày và xanh bóng đem cuộn tròn lại, xé hai bên mép lá làm sừng, buộc một mẩu dây chuối khô vào cuống rồi luồn vào trong, khe khẽ kéo... Thế là đã có một "con trâu lá đa", cặp sừng cong cong, cái đầu gục gặc như sẵn sàng nghênh chiên. Nào là trâu bố, trâu mẹ, nghé tơ... nằm quây quần bên nhau, nhìn mới thích làm sao!
Những chiếc búp đa khô quăn queo màu nâu rơi trên mặt cỏ nhặt về có thể làm kèn. Kèn búp đa ngậm vào miệng rồi phồng má thổi, nó kêu "toe" lên một tiếng, kèm theo chuỗi cười trong trẻo vang xa.
Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cánh đồng làng là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.
Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phấp phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa. Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây... Rồi chuyện làm ăn hàng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.
Tả cây hoa hồng trong vườn trước nhà em.
Trong rất nhiều những loại cây hoa như hoa hồng, hoa ly, hoa mai, hoa đào em thích nhất hoa hồng bởi màu sắc của nó rất gợi cảm và mang nhiều sức sống tươi vui nhộn nhịp.
Cây hoa hồng được trồng trước nhà em, mỗi buổi sáng em thường ngắm và được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó, nó có vẻ đẹp quý phái và mang những nét đặc trưng riêng cho mỗi người, những hình ảnh gợi hình và mang những cung bậc riêng, cây của nó có nhiều gai, màu xanh, hoa của nó màu hồng, thân cây của nó lắm gai, mỗi gai cách nhau 1 đến 2 cm, thân cây được chia làm nhiều nhánh và hoa được nở trên những cành tươi tốt, gốc của cây được trồng một cái chậu to và mỗi chậu sẽ được chăm bón rất tốt, hình ảnh này sẽ gợi tả những hình ảnh riêng và mang những cung bậc mới sâu sắc, hình ảnh này mang những đặc trưng riêng và có ý nghĩa lớn lao sâu sắc, hình ảnh đó đã khắc sâu trong tâm trí của em, mùi hương của nó bay ngào ngạt trong những làn sương sớm, cánh hoa mỏng và được xếp lên nhau thành từng tầng một nó lung linh và mang vẻ đẹp mạnh mẽ, trong những cây được trông trước nhà em thấy hình ảnh của nó hiện hữu và mang những đặc trưng riêng biệt có ý nghĩa lớn lao, hình ảnh bông hoa và những hình ảnh khác cũng được thể hiện sâu sắc.
Lá cây hoa hồng có màu xanh, mỗi cây có rất nhiều lá, trên lá cây cũng có màu xanh và có gai, gai của hoa hồng nếu bị đâm vào tay cũng rất đau, dễ cây có màu đen, được phân thành nhiều nhánh, thân cây lại có màu xanh giống như màu lá cây, mỗi cây có nhiều nụ và những bông hóa đã được nở ra thành những bông hoa đẹp, hình ảnh đó đã tác động đến tâm trí của mỗi người, hình ảnh hoa có những nét đẹp lung linh và tạo nên những dáng hình đẹp và có sức thu hút mạnh mẽ nó không chỉ tạo nên những sức hút lớn lao mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến hình ảnh thiên nhiên trù phú.
Em rất thích hoa hồng bởi nó tượng trưng cho một tình yêu đẹp, và em yêu vẻ đẹp quý phái của nó.
Tả câyhoa hồng
Nếu ai được sinh ra và lớn lên ở các vùng quê, vùng nông thôn ở Việt Nam thì sẽ khi nói về quê hương mình tự động trong tiềm thức xuất hiện những hình ảnh quen thuộc của làng quê mình, và những hình ảnh ấy chính là một trong những nét đặc trưng để nhận diện với các vùng quê khác của đất nước. Nhưng cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, cùng là cư dân của quốc gia gốc nông nghiệp, cùng nhau hình thành nên một nền văn hóa độc đáo từ bao đời nay nên những vùng quê ở Việt Nam cũng có nhiều những nét đặc trưng về văn hóa cũng như trong đời sống tinh thần. Và khi nói đến hình ảnh cây đa- giếng nước- gốc đình thì đó chính là một biểu tượng về sự sống của văn hóa dân gian, mà cụ thể ở đây chính là văn hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Ở nông thôn Việt Nam có rất nhiều các loại cây quen thuộc, điển hình có thể đại diện, biểu tượng như: cây lúa, cây khoai, cây sắn….nhưng đó là những biểu tượng cho nền nông nghiệp nói chung. Còn nói đến sinh hoạt văn hóa ở nông thôn thì loài cây có thể coi là đặc trưng, điển hình nhất lại là cây đa. Ở các vùng quê khác nhau có những đặc trưng vật chất, tinh thần khác nhau nhưng khi nhắc đến cây đa thì ai nấy đều cảm thấy thân thuộc, thân quen vì nó vẫn ngày ngày hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta, là biểu hiện của làng quê Việt Nam.
Cây đa là một loại cây dễ trồng, dễ sống và thường được trồng rất nhiều ở vùng quê Việt Nam, vị trí thông thường nhất đó chính là ở đầu làng, giữa làng hoặc ngoài cánh đồng, ở những nơi mà người dân thường xuyên xuất hiện, tụ tập nhất. Cây đa là một loài cây thân gỗ, khi phát triển hoàn thiện có thể cao đến vài chục mét, ở nhiều nơi, cây đa phát triển to lớn mà người ta dùng nó để phát hiện vị trí ngôi làng của mình, vì họ có thể ở những vị trí khác nhìn thấy biểu tượng của quê hương mình. Tôi cùng từng nghe bà kể về cây đa của làng mình, đó là một cây đa cổ thụ rất lớn, đi xa đến đâu cũng có thể nhìn thấy tán cây xum xuê, xanh tốt của nó. Vì vậy mà dù có đi xa, hay bị lạc đường thì chỉ cần nhìn vị trí của cây đa mà tìm được đường về làng.