Bài "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta" là đoạn trích trong văn kiện Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đản lao động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Qua đoạn trích này, tác giả khẳng định lòng yêu nước là một truyên thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước đó được thể hiện rõ ràng và rực rỡ nhất trong những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Đoạn trích cũng phản ánh thái độ trân trọng, tự hào của tác giả trước truyên thống ấy.
Tuy chỉ là đoạn trích nhưng bài văn vẫn có đầy đủ tính chất đặc trưng về cấu trúc của một bài văn nghị luận chứng minh ba phần rõ rệt như sau:
Mở bài: Từ đầu đến lũ cướp nước: Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta. Đó là sức mạnh to lớn trong các cuộc chiến đấu bọn xâm lăng.
Thân bài: Tiếp theo đến lòng nồng nàn yêu nước: Chứng minh những thể hiện cụ thể của tinh thần yêu nước trong lịch sử chống ngoại xâm và trong kháng chiến hiện tại.
Kết bài: Phần còn lại : Nhiệm vụ của Đảng là động viên,khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân ta ngày càng phát huy mạnh mẽ để cuộc kháng chiến chống Pháp đi tới thành công.
Bố cục như trên cho thấy sự hợp lí và chặt chẽ trong phương pháp lập luận. Nghệ thuật nổi bật nhất của bài văn là cách lựa chọn và trình bày dẫn chứng.
Phần mở bài nêu lên vấn đề được đưa ra nghị luận : Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta... nó nhấn chìm tát cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Trong cuộc sống chiến đấu và xây dựng, biểu hiện của lòng yêu nước rất phong phú và đa dạng. Ở bài viết này, tác giả nhấn mạnh đến lòng yêu nước trong các cuộc kháng chiến chống xâm lăng bởi nó bởi nó được bộc lộ mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất. Đặc điểm lịch sử của đất nước ta là luôn phải đương đầu với giặc nên rất cần lòng yêu nước và tinh thần xả thân vì nước. Trên thực tê, cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần thi đua yêu nước của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt biểu dương những gương sáng về lòng yêu nước.
Để khẳng định sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, tác giả đã mượn một hình ảnh hoành tráng có tính chất tượng trưng để so sánh : ... lòng yêu nước kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mội sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lòng yêu nước được nhắc lại nhiều lần (bằng đại từ thay thế nó), kết hợp các động từ có khả năng gợi cảm lớn như : kết thành, lướt qua, nhấn chìm... làm nổi bật sức mạnh không gì ngăn cản nổi của lòng yêu nước. Âm hưởng hào hùng của câu văn làm rung động trái tim muôn người. Cảm xúc sôi nổi, nhiệt thành, khâm phục và rất đỗi tự hào của Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc lộ rõ trong từng câu từng chữ.
Ở phần thân bài, để chứng minh cho nhận định trên,tác giả đã đưa ra những chứng cứ hùng hồn trong lịch sử giữ nước và trong thực tế cuộc kháng chiến chống Pháp để chứng minh.Đó là những tấm gương yêu nước sáng soi muôn đời của các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng:
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta.Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng,Bà Triệu,Trần Hưng Đạo,Quang Trung,Lê Lợi... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc,vì các vị ấy là tiêu biều của một dân tộc anh hùng.
Bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước cùa dân tộc ta là bốn ngàn năm kế thừa và phát huy liên tục truyền thống yêu nước.Lòng yêu nước như một mạch ngầm thiêng liêng không bao giờ cạn trong dòng máu mỗi người dân tộc Việt.Giờ đây,nó được biểu hiện thành những hành động thiết thực.
Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ,từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vù tạm chiến,từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi,ai cũng một lòng mồng nàn yêu nước ghét giặc.Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc,đến những công chức ở địa phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội,từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải,cho đến các bà mẹ chiến sĩ và nhân dân thi đua tăng gia sản xuất,không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến,cho đến những đồng bào miền chủ quyên đồng bảo bào cho chính phủ,... Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi làm việc nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
Trong đoạn cuối văn bản tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh đặc sắc để cụ thể hóa khái niệm trừu tượng,giúp người đọc người nghe hiểu được một cách dễ dàng:
Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý được trưng bày trong tủ kính,trong bình pha lê,rõ ràng dễ thấy.Nhưng cũng có khi cất giấu kính đáo trong rương trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày.Nghĩa ra là phải ra sức giải thích tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công cuộc yêu nước,công việc kháng chiến.
Bác đã phân tích rõ hai trạng thái của tinh thần yêu nước là tiềm tàng.kín đáo và sôi nổi mãnh liệt.
Bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ,bố cục rõ ràng và hệ thống dẫn chứng chân thực,bài văn có sức thuyết phục rất lớn.Nhiều thủ pháp nghệ thuật tác giả sử dụng nhưng so sáng,liệt kê,lập cấu trúc và hàng loạt động từ có khả năng gợi cảm cao... Làm cho câu văn trở nên nhịp nhàng,cân đối,khỏe khoắn.Do vậy mà âm hưởng bài văn hào hùng như âm hưởng của một lời hịch kêu gọi,khích lệ toàn dân đoàn kết một lòng đánh đuổi xâm lăng bảo vệ chủ quyền độc lập thiêng liêng cuả Tổ quốc.
Bài văn đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi người dân.Truyền thống anh dũng,bất khuất là cơ sở vững chắc bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng.Ngày nay,bài văn trên vẫn còn nóng bỏng tính thời sự,có tác dụng động viên nhân dân Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.