nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến , có bài ca dao sau :
"thân em như tấm lụa đào
phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."
từ bài ca dao trên , viết đoạn văn ngắn (khoảng 20 dòng) trình bày 1 vài suy nghĩ của em về "thân phận" và vai trò của người phụ nữ ngày nay để thấy được sự khác biệt của xã hội xưa và nay .
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn bị coi nhẹ, rẻ rúng, họ không được quyền quyết định trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã chà đạp lên quyền sống của họ, đàn ông được coi trọng, được quyền “năm thê bảy thiếp”, được nắm quyền hành trong xã hội, trong khi đó phụ nữ chỉ là những cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Họ phải làm lụng, vất vả cung phụng chồng con, một nắng hai sương mà cuộc đời thì tăm tối. Họ phải cất lên tiếng nói của lòng mình.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, cũng như trong toàn thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, người ta rất coi trọng “truyền thống lịch sử”, trong đó có”truyền thống phụ nữ” và “người phụ nữ truyền thống”. Từ khi mở cửa và bước đầu hội nhập thế giới hiện đại, người ta vẫn quan tâm, hay đúng ra lại càng quan tâm hơn đến truyền thống phụ nữ. Ngày Quốc tế Phụ nữ Tám tháng Ba được kỷ niệm cùng với Lễ Hai Bà Trưng ngày Sáu tháng Hai âm lịch. Nhân ngày này, Hội Liên hiệp Phụ nữ trung ương cũng như địa phương thường nhắc “truyền thống phụ nữ Việt Nam” để cổ động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế nhưng, bất cứ ai quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật lạ lùng nếu, giữa “bảo tồn truyền thống” và “đấu tranh vì tiến bộ”, mục tiêu và vấn đề cần chú ý lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động tiến bộ cho phụ nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu đời.Đó là vẻ đẹp chân quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu đào tơ, là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì nam giới. Họ làmột nửa của cuộc sống nhân loại. Nhà văn M. Gôrky (người Nga) đã nói:
Không có mặt trời thì hoa không nở
Không có mẹ hiền, anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu?.
Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Những nhà thơ trong xã hội phong kiến đã thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song những tác phẩm đó cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà những tác phẩm trên vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc những tác phẩm ấy, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lòi than thân buồn tủi:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.
Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; Thân em, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của ngưòi phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất ngưòi phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng ngưòi phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cồ' định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, ngưòi phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn 'trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.
Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thòi phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có
sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho sô" phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ ngưòi này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Ngưòi phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Sô" phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:
Ví đây đôi phận làm trai được.
Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?
Chúc p hk tốt
Những bài ca dao quen thuộc về những người phụ nữ xa xưa trong chế độ phong kiến cũ thường được bắt đầu bằng mô típ “ thân em” . Có thể là lời than trách hoặc là sự khao khát tự do. Có thể lấy ví dụ như:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Phân tích bài ca dao: ” Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Thay vì ví von như củ ấu gai hay hạt mưa sa. “ Thân em” – người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được so sánh như tấm lụa đào. Tấm lụa đào óng ả, mềm mượt cũng như người con gái nhẹ nhàng đẹp đẽ. Người ta cảm nhận được sự giá trị của người con gái hơn, có lẽ đây là biện pháp tu từ thanh thoát và dễ đi vào lòng người. Thế nhưng, trong đó còn ẩn đâu đó một nỗi niềm sâu xa. Tấm lụa đào cũng vốn dĩ chỉ là một tấm vải để con người may mặc lên người hay trang trí lên các vật dụng. Tấm lụa âm thầm chịu đựng theo sự sắp đặt của chủ nhân phải chăng cũng giống như người phụ nữ phải luôn chịu ấm ức áp đặt. Một dáng vẻ đẹp đẽ, thanh tao nhưng âm thầm làm con người ta phải suy nghĩ. Dù tấm lụa rất đẹp nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận mong manh. Câu thứ hai có vẻ đã làm rõ ý đồ của tác giả hơn “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” . Từ “ phất phơ” và “ giữa chợ” làm nên ấn tượng với người đọc. Có thể liên tưởng đến Thúy Kiều – người con gái được mang ra trao đổi thương lượng như một món đồ. Số phận người phụ nữ xưa cũng vậy. “ Phất phơ giữa chợ” có nghĩa là phận nữ nhi không lạc lối giữa xã hội phong kiến, không có quyền nắm bắt tương lai của bản thân. Câu hỏi tu từ “ biết vào tay ai” thật tinh tế nhưng cũng phảng phất nỗi buồn của tấm lòng của người con gái. Họ sẽ sống ra sao giữa cuộc đời vô định này.
Bài ca dao là lời than vãn về số phận bấp bênh của người phụ nữ lứa tuổi đôi mươi. Là sự băn khoăn cho lắng cho về số phận tương lai mà không được mình định đoạt. Không chỉ là lời thổn thức tiếng lòng mà còn khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ xưa.
Thân phận của người phụ nữ xưa và nay đã được đối xử hoàn toàn khác. Người phụ nữ xưa bị lệ thuộc " cha mẹ đặt đâu thì ở đấy " , " trọng nam khinh nữ" . Họ luôn bị hắt hủi , dẻ dúm , không có quyền quyết định số phận của mình , bị coi thường và không có giá trị. Nhưng người phụ nữ ngày nay đã được đối xử bình đẳng , có giá trị. Phụ nữ đã có quyền tự chủ , quyền quyết định số phận của mình.Họ đã được tôn vinh với những "cuộc thi sắc đẹp, cuộc thi hoa hậu,..." . Họ được phát triển những tài năng , sự hiểu biết của mình. Những người phụ nữ đó sẽ luôn được tôn trọng.