Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, về cơ bản, Mỹ có một số nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của mình đó là
- Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu”, chiến lược này với mục tiêu tối thượng đó là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào dân tộc và thiết lập sự thống trị trên toàn thế giới trên cơ sở những lý luận của học thuyết Tơ-ru-man.
- Theo đó, Mỹ viện trợ để lôi kéo các nước về phe mình, qua đó chi phối các nước, đồng thời lập liên minh về quân sự nhằm tạo bức tường bao vây và chống phá Liên Xô và các nước XHCN. Đi kèm với đó là Mỹ kích động và can thiệp chiến tranh vào nhiều quốc gia.
- Tất cả các hành động của Mỹ đều nhằm xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ chi phối và khống chế.
Liên hệ với Việt Nam:
- Có thể khẳng định, Việt Nam là một quốc gia tương đối trọng điểm trong chính sách của Mỹ, vì vấn đề địa chính trị, địa quân sự nên Mỹ phải can thiệp vào Việt Nam và biến Việt Nam trở thành nơi chịu rất nhiều tác động của chính sách đối ngoại của Mỹ sau Thế Chiến II.
- Ngay từ thời sau Cách mạng tháng Tám, Hồ chủ tịch viết nhiều lá thư gửi Tổng thống Mỹ yêu cầu giúp đỡ và bàn về nhiều vấn đề tuy nhiên Mỹ bác bỏ hoàn toàn vì lý do Việt Nam là cộng sản, là đối tượng của Mỹ.
- Từ những năm 1947-1948 đặc biệt năm 1950 Mỹ ngày càng nhúng tay vào giúp Pháp trong chiến tranh xâm lược trở lại nước ta của Pháp.
- Mỹ đề ra học thuyết Đô-mi-nô, cho rằng chủ nghĩa cộng sản thắng thế ở Việt Nam sẽ dẫn tới hiệu ứng đô-mi-nô cho phong trào cộng sản ở Đông Nam Á.
- Sau hiệp định Giơ-ne-vơ Mỹ can thiệp mạnh vào Việt Nam, lập nên chính quyền ngụy Sài Gòn Việt Nam Cộng hòa để chống lại nguy cơ thống nhất Việt Nam, ngăn chặn làn sóng cộng sản.
- Đến năm 1965, khi tiến hành Chiến tranh cục bộ, Mỹ trực tiếp cho quân tham chiến tại nước ta, trực tiếp can thiệp mạnh vào Việt Nam.
- Không những vậy, Mỹ còn lôi kéo các nước Đông Nam Á để thành lập khối SEATO – Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (một dạng như NATO tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) nhằm chống lại Việt Nam cũng như làn sóng cộng sản từ Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, Việt Nam là một trong những điểm nóng trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong chiến lược toàn cầu của mình. Mỹ muốn chia cắt Việt Nam, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn vào Đông Nam Á, nơi có vị trí địa lý, địa chính trị quan trọng, nơi có nhiều hàng hóa lưu thông, nơi tiếp nối Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Một chiến thắng ở Việt Nam sẽ thể hiện sự thắng thế của Mỹ trong việc ngăn chặn và bao vây phe cộng sản. Tuy nhiên, Mỹ đã thất bại thảm hại.
Những nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai :
1. Thực hiện "Chiến lược toàn cầu".
*Mục tiêu:
- Chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc.
- Thiết lập sự thống trị của Mĩ trên thế giới.
*Biện pháp:
Mĩ tiến hành "viện trợ" để lôi kéo, không chế các nước; lập ra các khối quân sự; chạy đua vũ trang, gây chiến tranh xâm lược…
*Hệ quả:
- Gặp nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu nhất là thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
- Thực hiện được một số mưu đồ như góp phần làm tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.
2. Thiết lập trật tự thế giới đơn cực.
Sau khi Liên Xô bị sụp đổ, dựa vào ưu thế về quân sự, kinh tế, khoa học - kĩ thuật... Các giới cầm quyền Mĩ ráo riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới một cực do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng và khả năng thực hiện vẫn có khoảng cách không nhỏ
* Về đối nội:
- Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ. Tuy bề ngoài hai đảng này có vẻ đối lập nhau, nhưng thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm: phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền kếch sù ở Mĩ.
- Để phục vụ mưu đó bá chủ thế giới, những năm đầu tiên sau chiến tranh:
+ Ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ họat động
+ Chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước.
- Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng - loạt chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc đối với người da đen và da màu...
- Mặc dù gặp không ít khó khăn trở ngại, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ vẫn tiếp tục và có thời kì bùng lên dữ dội như các “mùa hè nóng bỏng” của người da đen diễn ra trong những năm 1963, 1969 - 1975, phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam 1969 - 1972...
* Về đối ngoại:
- Với một tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm:
+ Chống phá các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc.
+ Thiết lập sự thống trị trên tòan thế giới.
- Mĩ đã tiến hành “viện trợ” để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược...
- Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
- Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong 10 năm (1991 - 2000) và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ rao riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính sách đối ngoại của MĨ đã có nhưng nét nổi bật:
Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào dân tộc và thiết lập sự thống trị trên toàn thế giới. Viện trợ để lôi kéo các nước lập khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Tuy nhiên Mĩ cũng chịu thiệt hại nặng nề nhất là chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mĩ tiến hành chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ chi phối và khống chế.