Tham khảo:
Trăng - người bạn tâm giao, người bạn tri kỉ muôn đời của Bác. Trăng đồng hành cùng Bác trong tất cả mọi chặng đường hoạt động cách mạng. Và trong những năm tháng gian lao ấy, ta sao có thể quên sự giao hòa giữa Người và ánh trăng khi ở nhà lao Trung Quốc. Vẻ đẹp của thiên nhiên mà nổi bật hơn cả là vẻ đẹp của con người đã được thể hiện đầy đủ qua bài thơ Ngắm trăng.
Trăng vốn là một thi đề lớn trong sáng tác của Bác, có thể kể đến như Cảnh khuya:
Tiếng hát trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Hay bài thơ Nguyên tiêu:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Người ta vẫn thường dành những phút nhàn dỗi, thảnh thơi để bên chén trà thơm, chiếc kẹo ngọt mà thưởng thức ánh trăng, ngẫm chuyện mình và ngẫm chuyện đời. Còn đối với Bác, nào cần thảnh thơi, nào cần khung cảnh hoàn mĩ, chỉ cần một tình yêu, một lòng say mê thì dù có là hoàn cảnh đề lao tàn nhẫn, Người vẫn có thể mở rộng tâm hồn mình mà thưởng thức ánh trăng:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà
Hiện thực khắc nghiệt được dựng lên một cách chân thực và đầy đủ nhất, không rượu cũng chẳng hoa. Điều kiện cơ sở để ngắm trăng chẳng phải là quá thiếu thốn đó sao. Nhưng trước cảnh đẹp khiến con người ta nao lòng thổn thức sao có thể dừng lại được. Câu hỏi tu từ “biết làm thế nào” (nại nhược hà) vừa là sự băn khoăn, trăn trở chưa biết làm sao, vừa là sự hứng khởi, hào hứng khi được gặp lại người bạn tri âm. Bởi vậy, trong câu thơ dồn nén cả hai dòng cảm xúc, vừa ưu tư vừa vui sướng, hạnh phúc.
Và đẹp nhất chính là cuộc vượt thoát giữa người và trăng, để tạo nên sự giao hòa tuyệt đối giữa hai người bạn:
Nhân hướng song tiền khan minh nguyệt
Nguyệt tong song khích khan thi gia
Hai câu thơ này có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật đối, đối giữa hai câu, đối trong một câu vô cùng chỉnh. Nhân đối với nguyệt, nguyệt đối với thi gia, kết hợp với điệp từ khán cho thấy sự giao hòa tuyệt đối giữa con người và thiên nhiên. Trong hoàn cảnh tù ngục tối tăm, bị tra tấn, phải di chuyển liên tục ở nhiều nơi, nhưng không vì thế mà Bác mất đi tình yêu thiên nhiên, lòng đắm say trước khung cảnh đẹp, đặc biệt là ánh trăng. Hai gương mặt trong sáng, toàn bích trăng và nhà thơ không thể bị những song sắt lạnh giá ngăn cản, họ vẫn vượt thoát khỏi khung cảnh khắc nghiệt đó để giao hòa cùng nhau. Đây có thể coi là hai câu thơ đẹp đẽ, độc đáo nhất trong bài thơ. Tư thế ngắm trăng của Bác đã cho thấy tình yêu trăng, và một tâm hồn thanh cao, rộng mở vời tình yêu thiên nhiên và khát vọng tự do tha thiết. Đúng như những gì mà Bác đã viết ở đầu của tập Nhật kí Trong tù:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
Ngắm trăng là bài thơ tứ tuyết hay và đặc sắc nhất của Bác trong tập thơ Nhật kí trong tù. Tác phẩm với lối ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa, cùng nghệ thuật đối tài tình vừa cho thấy tình yêu thiên nhiên của Bác vừa cho thấy tấm lòng yêu tự do, và hết sức ung dung, tự tại trong hoàn cảnh tù ngục.
tham khảo :
Khi xưa, các tao nhân mặc khách có thú vui tao nhã là uống rượu, thưởng nguyệt, làm thơ. Bác lúc này với hoàn cảnh không có rượu nhưng vẫn thưởng nguyệt, làm thơ hết sức say sưa. Hai câu thơ cuối tạo sự đăng đối cho ý thơ. Người thì từ trong nhà lao tăm tối, “hướng” đôi mắt cùng tâm hồn dễ rung cảm của mình lên bầu trời cao rộng bên ngoài qua khung cửa sắt nhỏ để ngắm vẻ đẹp của ánh sáng vầng trăng, còn vầng trăng thì được nhân hóa như một con người biết suy nghĩ, biết ghé vào song sắt để ngắm nhìn thi gia. Đến đây ta có cảm giác trăng và người tuy hai mà một, như những người bạn tri âm tri kỉ tuy có khoảng cách về địa lí nhưng tâm hồn họ lại có thể tìm đến với nhau dễ dàng. Song sắt nhà tù kia chẳng qua chỉ có thể giam giữ, tách biệt thân thể Người với thế giới bên ngoài bằng hình thức chứ không thể giam giữ được tâm hồn Người. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng vẫn tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, có lẽ chính vì niềm tin yêu ấy mà đến ánh trăng cũng muốn tìm đến soi rọi vào góc tối tăm của nhà tù để ở đó, sáng ngời lên hình ảnh của một thi nhân chân chính. Khi này, Người không phải là một tù nhân nữa mà trở thành “thi gia”. Bài thơ chính là vẻ đẹp của một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu trăng, một tâm hồn thi gia vô cùng tinh tế, nhạy cảm.