Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa.
Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này.
Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ “bóng xế tà”. Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mắt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hịu quạnh của đèo Ngang. Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn.
Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái da da” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe vẳng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quanh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả “nhớ nước” và “thương nhà”. Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt.
Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm
Dừng chân nghỉ lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ bốn chữ “dừng chân nghỉ lại” cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chốn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
rời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.
Trong những nhà thơ nữ của ta ngày trước, sau nữ sĩ Hồ Xuân Hương người có phong cách rõ ràng nhất là bà Huyện Thanh Quan. Khác với những lời thơ rắn rỏi mạnh mẽ đầy khẩu khí Hồ Xuân Hương, thơ bà Huyện Thanh Quan là những lời thơ trang nhã nhẹ nhàng mang tính chất cung đình và luôn gợi nỗi buồn man mác. Trong những bài thơ bà để lại cho đời có lẽ tiêu biểu nhất là bài thơ Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình độc đáo mà đặc sắc nhất là hai câu thơ cuối, đúng như nhận định của Tế Hanh trong bài Một bài thơcủa bà Huyện Thanh Quan.
Trong bài thơ Qua đèo Ngang hai câu thơ xuất sắc nhất là hai câu thơ sau cùng:
Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Hai câu này vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xức mới.
Phân tích tìm hiểu bài thơ chúng ta sẽ thấy rõ nhận định của Tế Hanh vô cùng tinh tế.
Chỉ với mười bốn tiếng gói trọn trong hai dòng, hai câu thơ tổng kết mọi ý trong bài. Ta thấy được toàn cảnh Đèo Ngang lắng đọng trong câu thơ “Dừng chân dứng lại trời non nước”. Đọc lời thơ ta hình dung được hình ảnh của nữ sĩ. Đang bước đi trên đỉnh đèo bà chợt dừng chân đứng lại. Trước mắt nhà thơ là cảnh trời, non, nước mênh mông bao la trống vắng. Trời trong bóng xế tà đang bao phủ lên mọi vật, làn khí ban chiều toả hơi giá buốt gợi sự hoang vắng cô liêu. Thêm vào đó, Đèo Ngang đồ sộ uy nghiêm sừng sững giữa khung trời bao la, cỏ cây hoa lá rậm rạp chen chúc nhau mọc um tùm. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Cảnh thiên nhiên ngút ngàn ấy càng trở nên lạnh lẽo cô đơn bởi vẻ thưa thớt của con người lom khom dưới núi, lác đác bên sông. Và bóng dáng nhỏ bé của nữ sĩ dường như mất hút vào không gian mênh mông kia! Là người phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, bà cảm nhận được ngay sự lạc lõng, cô đơn của mình trước thiên nhiên rộng lớn.
Trời, non, nước hiện lên trong cảnh chiều tà vắng lặng, tĩnh mịch như đang muốn nuốt lấy con người bé nhỏ của nhà thơ. Tác giả chỉ còn như một chấm nhỏ trong bức tranh thiên nhiên ngút ngàn hoang vắng ấy. Câu thơ đã thâu tóm được cảnh trong bài thơ.
Và ở đây, tình của nhà thơ cũng được lắng lại trong câu cuối cùng “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Mảnh tình riêng đó là tấm lòng của nhà thơ. Mang trong lòng nỗi buồn lúc cất bước ra đi, giờ lại được lan toả trong thiên nhiên, cái buồn ấy day dứt mãi khôn nguôi. Lòng bà thiết tha nhớ về đất nước, nhớ thành Thăng Long xưa cũ, nhớ quá khứ vàng son. Nỗi nhớ nước làm lòng bà đau đớn, xót xa theo từng tiếng kêu khắc khoải của con chim cuốc mà biến mình thành Thục Đế, mãi ôm ấp bóng hình, gọi về nưức cũ thành xưa.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Là phụ nữ, bà không thoát khỏi nhi nữ thường tình. Theo mỗi bước chân, bà xa nhà, xa cố nhân thêm một ít, tình cảm càng mỏng manh khiến tâm hồn lạnh lẽo. Nghe tiếng kêu của con đa đa tìm bạn, bà thấy mái ấm gia đình với bao nhiêu người thân thích càng lúc càng xa vời vợi. Tất cả chìm sâu trong khoảnh khắc, giờ đây chỉ còn lại mình bà nơi đèo Ngang hiu quạnh. Mảnh tình riêng ấy được thâu gọn trong câu thơ kết thúc.
Hai câu thơ nhẹ nhàng như khép lại bài thơ, nhưng âm hưởng của lời thơ, cái tình của người làm thơ không khép. Cho nên hai câu thơ vừa kết thúc bài thơ lại mở ra một chân trời cảm xúc mới. Âm vang của câu thơ cuối Một mảnh tình riêng ta với ta như mở cho ta thấy được tâm tình của nữ sĩ ẩn chứa bên trong. Đúng như Tế Hanh đã nhận xét: Thơ là tấm lòng của người làm thơ, cái "cá nhân" của tác giả nói với chúng ta. Ở đây, trong bài thơ này, bà Huyện Thanh Quan đã kín đáo bày tỏ nỗi niềm của mình qua những lời thơ tha thiết. Đó là tâm sự của một con người đang cô đơn lạc lõng trong cảnh chiều tà ở đèo Ngang mang theo nỗi buồn thương nhà, nhớ nước. Đó là nỗi cô đơn, nỗi chán chường, bởi cái thực tại của xã hội đương thời, cảnh sống nhiễu nhương, chế độ đang đến thời kỳ suy tàn, nó không phù hợp với bà. Nỗi buồn riêng ấy là sự phủ nhận thực tại. Đây là sự phủ nhận đáng quý của một con người có tâm hồn trong sạch, có tình cảm thanh cao, yêu nước thương dân. Thế nhưng nỗi buồn ấy, mảnh tình riêng ấy, bà không thể thổ lộ được cùng ai. Nhà thơ đã tự gặp lại mình trong nỗi buồn thương nhớ cô đơn của riêng mình. Một nỗi buồn da diết, không bao giờ dứt. Cả bài thơ êm đềm như dòng sông âm thầm chảy, mặt nước thì lững lờ, nhưng mấy ai biết được sóng ngầm, bão. táp giấu kín ở đâu? Những cảnh vật tĩnh lặng, im lìm đến lạnh lùng ấy lại hé mở giúp ta hiểu được thế giới bên trong của nhà thơ. Đó là ý thức về "cái tôi" ở trong một thời đại mà "cái tôi" ấy đã bị xã hội đè nén.
Tóm lại, hai câu thơ kết thúc bài thơ Qua đèo Ngang đã khắc hoạ đậm nét bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng trong bóng chiều tà với trời non nước bao la, đồng thời cũng in đậm được tình cảm cùa con người, nữ sĩ Thanh Quan với nỗi buồn sâu lắng cô đơn, nỗi buồn thời đại. Bài thơ mang nét đẹp của cảnh vật và cả nét đẹp của tầm hồn con người với một tình cảm đáng quý. Có lẽ vì thế mà bài thơ trở nên quen thuộc với mọi người, sống mãi với thời gian, với bao thế hệ bạn đọc. Ta chợt thấy bóng dáng của nữ sĩ như ẩn hiện trong từng lời thơ trầm buồn.
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.