Ôn tập ngữ văn lớp 6 học kì I

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nghuyễn thị lương

Em hãy kể lại câu chuyện BÁNH TRƯNG , BÁNH GIÀY

Duyên
3 tháng 8 2019 lúc 14:09

1. Mở bài:

* Giới thiệu chung:

- Đời Hùng vương thứ sáu ở nước ta.

- Vua Hùng chọn người kế vị.

- Lang Liêu được trao ngôi báu.

2. Thân bài:

* Diễn biến của truyện:

+ Ý định của vua Hùng:

- Muốn truyền ngôi cho một người con có đức, có tài.

- Nghĩ ra cách chọn người xứng đáng. (Mở cuộc thi làm cỗ dâng vua cha và Tiên vương.)

+ Cuộc thi làm cỗ:

- Các lang (con trai vua) đua nhau làm cỗ thật to, thật ngon...

- Lang Liêu được thần báo mộng, làm ra hai thứ bánh bằng gạo nếp dâng lên vua cha.

- Hùng Vương chọn hai thứ bánh đó để tế Trời Đất cùng Tiên vương và đặt tên là bánh chưng, bánh giầy.

3. Kết bài:

* Kết thúc truyện:

- Lang Liêu được vua cha trao cho ngôi báu.

- Tục ngày Tết người Việt thường làm bánh chưng, bánh giầy để cúng xuất hiện từ đó.

Duyên
3 tháng 8 2019 lúc 14:11

Trong chương trình Ngữ vãn lớp 6, em đã được học năm truyền thuyết. Mỗi truyền thuyết đều để lại cho em một ý nghĩa sâu sắc. Nhưng em thích nhất là truyền thuyết "Bánh chưng, bánh giầy". Câu chuyện xảy ra như sau:
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:
– Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:
– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hăy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.

B.Thị Anh Thơ
3 tháng 8 2019 lúc 14:41

Ta tên là Liêu. Là con trai nhà vua nhưng ta không giống các anh em khác, quanh năm thức khuya dậy sớm trồng ngô khoai, cấy lúa. Trong nhà ta chỉ ngô lúa là nhiều.

Một hôm, vua cha gọi chúng ta lại, phán rằng:

- Cha biết mình gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một người trong số các con. Các con hãy làm cỗ để cúng lễ tổ tiên. Ai làm được món ăn quý vừa ý ta thì sẽ được chọn.

Nghe vua cha phán truyền như thế, các hoàng tử anh em của ta thi nhau cho người đi khắp nơi tìm kiếm thức ăn quý, nào là sơn hào hải vị, nem công, chả phượng để mong được làm vua. Ta không có điều kiện làm việc ấy mà cũng không muốn thế vì ta nghĩ món ăn đáng cúng Tiên vương phải do tay mình làm ra. Ta băn khoăn, lo lắng bao ngày. Ta nhiều lúa gạo, đậu đỗ, ngô khoai, nhưng những thức đó thì tầm thường quá, biết làm thế nào? Một đêm, ta mơ thấy thần tiên mách bảo: "Hãy lấy gạo làm bánh mà tế lễ". Càng ngẫm ta thấy lời thần thật đúng, các thứ của ngon vật lạ kia ăn mãi rồi cũng chán, còn lúa gạo thì dùng được mãi. Ta bèn chọn lấy thứ gạo nếp trắng ngon nhất, ngâm kĩ, làm bánh hình vuông gói trong lá dong. Nhân bánh bằng thịt lợn, đậu xanh. Ta lại làm thêm một thứ bánh hình tròn bằng cách giã mịn cơm nếp đã đồ thật dẻo. Những thứ bánh ấy thật thơm ngon, ta sung sướng dâng cúng Tiên vương.

Ngày lễ Tiên vương, các anh em ta dâng lên bao nhiêu của ngon vật lạ nhưng vua cha chỉ lướt qua. Đến mâm cúng của ta, Người dừng lại rất lâu. Ta bày những lời thần mách bảo. Sau khi cùng triều thần ăn thử, Người rất vừa lòng và phán rằng, bánh hình vuông tượng trưng cho đất, có cây cỏ muông thú, đặt tên là bánh chưng, bánh hình tròn tượng trưng cho trời, đặt tên là bánh giầy.

Vua cha trang trọng tuyên bố la được giải nhất và được truyền ngôi. Ta vô cùng sung sướng và cảm động. Từ đó, ta luôn chăm lo cho việc trồng cấy, chăn nuôi của nhân dân để nhà nhà đều được no ấm.



Sara Trang
3 tháng 8 2019 lúc 15:04

Bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh được dùng nhiều nhất vào đầu năm mới. Ai cũng làm, hay là mua bánh để cúng ông bà tổ tiên, để đãi nhau, thưởng thức hương vị ngày Tết. Có thể thấy, hai loại bánh này rất nổi tiếng và mang hương vị, văn hóa của người Việt Nam. Chắc chắn rằng, khi mọi người đọc cổ tích cũng biết ngay đến chuyện bánh chưng, bánh giầy.

Từ thời rất xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, sau khi đuổi được giặc Ân ra bờ cõi nước ta, vua Hùng có ý định truyền ngai vàng cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp đầu năm mới, khi mọi thứ đang tưng bừng sức sống, tràn ngập sắc xuân, vua gọi các hoàng tử đến và bảo rằng:

“Trong các con,ai tìm được thức ăn ngon để bày ra một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa và ấm cúng thì ta sẽ truyền lại ngôi vua cho người đó.” Và cuộc thi đã thật sự bắt đầu, các hoàng tử ai ai cũng đều đua nhau tìm kiếm khắp nơi những thức ăn ngon nhất, lạ nhất để dâng lên vua Hùng với mong muốn rằng, món của mình sẽ là món ăn ngon nhất, lạ và ý nghĩa nhất. Lang Liêu là hoàng tử thứ mười tám trong tất cả các hoàng tử và chàng là người con duy nhất có đức tính hiền lành, hiếu thảo. Vì mẹ hoàng tử Lang Liêu qua đời sớm nên hoàng tử thiếu người chỉ dạy, vì vậy chàng rất lo lắng không biết làm thế nào để có được một món ăn ngon và ý nghĩa vào ngày Tết.

Hoàng tử rất buồn và lo lắng. Một hôm, Lang Liêu đang nằm ngủ mơ màng, trong giấc mơ hoàng tử thấy một vị thần xuất hiện và bảo rằng:

“Này con, trong trời đất này thì không có gì quý bằng gạo cả, gạo chính là thức ăn để nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp thật ngon, làm thành những chiếc bánh hình tròn và hình vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời còn hình vuông để tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, làm nhân đặt trong ruột bánh để tượng trưng cho sự sinh thành của cha mẹ.”

Hoàng tử tỉnh dậy, không tin vào giấc mơ hạnh phúc. Chàng mừng rỡ, vì đã được thần linh giúp đỡ mình. Hoàng tử làm theo lời vị thần dặn, chọn gạo nếp thật ngon để làm bánh vuông, đó là bánh chưng. Hoàng tử lấy xôi nếp giã nhuyễn, nặn lại thành hình tròn đó là bánh giầy. Lá xanh bọc ngoài, che chở cho bánh, tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ.

Ngày hẹn đã đến, các hoàng tử ai nấy cũng đều mang những sơn hào hải vị tìm khắp cả nước để dâng lên vua. Đến lượt Lang Liêu, chỉ có hai loại bánh là bánh chưng và bánh giầy được làm từ gạo nếp, nó không phải là sơn hào hải vị gì cả. Vua Hùng rất ngạc nhiên, Lang Liêu kể về giấc mơ và giải thích ý nghĩa cho vua cha nghe. Vua thấy rất ngon và có ý nghĩa nên nhường lại ngai vàng cho Lang Liêu.

Và kể từ đó món bánh chưng bánh giầy ra đời, cứ dịp Tết đến xuân về thì không bao giờ thiếu hai loại bánh này.

✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
3 tháng 8 2019 lúc 16:30

Tham khảo :

Trong chương trình Ngữ vãn lớp 6, em đã được học năm truyền thuyết. Mỗi truyền thuyết đều để lại cho em một ý nghĩa sâu sắc. Nhưng em thích nhất là truyền thuyết "Bánh chưng, bánh giầy". Câu chuyện xảy ra như sau:
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:
– Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:
– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hăy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.

minh nguyet
3 tháng 8 2019 lúc 16:58

Tham khảo:

Vua Hùng Vương thứ sáu mở cuộc thi chọn người nối ngôi. Vua ra điều kiện: trong lễ tế Tiên vương, ai làm vua hài lòng, người đó sẽ được truyền ngôi. Các lang liền toả đi khắp nơi tìm bạc vàng, châu báu, của ngon vật lạ để dâng lên. Thấy thế, Lang Liêu rất bối rối. Là con trai nhà vua nhưng chàng rất nghèo, không thể tìm được những đồ quý hiếm. Chàng băn khoăn, trằn trọc suy nghĩ...

Thế là sắp đến ngày lễ Tiên vương rồi. Ngày kia trong triều sẽ mở đại tiệc. Hẳn các lang anh đã chuẩn bị được nhiều của ngon vật lạ lắm. Nào là nem công chả phượng, nào là yến huyết, vi cá... Vua cha rồi sẽ khen nức nở, chỉ việc chọn món nào ngon nhất mà thôi. Mình không ham gì ngôi cao, chỉ mong ước được sống bình yên như thế này. Nhưng, dẫu sao cũng là tấm lòng, giá như mình có một món gì đó thật ý nghĩa tế lên Tiên vương và cũng là để thể hiện lòng thành kính đối với vua cha thì tốt quá.

Lang Liêu ngủ thiếp đi, trong mơ chàng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ chống gây đến nói:

- Lang Liêu ạ, ta biết con tuy nghèo nhưng rất có hiếu. Con chỉ muốn có một món quà gì đó để dâng lên Tiên vương và cũng để tỏ lòng hiếu thảo đối với vua cha phải không? Vậy ta hỏi con: Con làm nghề nông, trên đời cái gì cao nhất?

- Dạ, trời ạ!

- Thế cái gì gần gũi và quý nhất?

- Dạ, đất ạ!

- Vậy con hãy lấy những sản vật do chính tay con trồng cấy và nuôi nấng để làm ra món ăn gì đó vừa tượng hình được cho trời vừa tượng hình cho đất. Đó chính là món quà quý nhất con có thể dâng lên Tiên vương.

Cụ già nói xong liền hoá thành một làn khói mỏng bay đi. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy. Nhớ lại giấc mơ vừa qua, chàng vô cùng mừng rỡ.

Sáng hôm sau, Lang Liêu nhờ mẹ lấy cho ít lá vẫn dùng làm bánh. Chàng chọn thứ gạo ngon nhất, trắng nhất, mổ một con lợn béo lấy những miếng thịt ngon nhất. Sau đó chàng lấy lá gói thành thứ bánh vuông vức như mặt đất bao la. Xong xuôi chàng cho vào nồi luộc. Qua mấy canh giờ, mùi bánh chín bốc lên thơm nức cả làng xóm. Ai đi qua cũng ghé vào xem, khen rằng chưa từng có ai gói được thứ bánh thơm như thế. Cũng thứ cơm nếp thơm ngon ấy, chàng giã mịn, nặn thành thứ bánh tròn vành vạnh như bầu trời buổi sớm.

Sáng hôm sau, mẹ Lang Liêu đội mâm bánh tròn đi trước, Lang Liêu đội mâm bánh vuông theo sau. Hai mẹ con vào đến trong cung thì mọi người đã về tựu đông đủ.

Lỗ Tiên vương xong, vua cùng các quan đại thần đi một vòng qua các mâm cỗ nếm thử. Đến mâm nào Người cũng chỉ nếm qua một miếng, tỏ vẻ không vui. Như: gan hùm, tay gấu, tim voi, đến cả vi cá mập,.... Người cũng vẫn thường ăn hàng ngày, có gì lạ đâu? Người buồn vì thấy trước một thử thách như thế, các lang không nghĩ được cái gì có ý nghĩa, chỉ biết có mỗi cách là đi các nơi tìm của ngon vật lạ.

Đến hai mâm bánh cùa Lang Liêu, nhà vua bỗng dừng lại, ngẫm nghĩ. Từ hai mâm bánh bình dị toát lên mội thứ mùi vị thật nồng nàn, thân thuộc. Mùi của nếp mới quyện trong sương sớm, của rơm tươi vừa gặt toả ra ngan ngát. Trong làn hương thoang thoảng, thấp thoáng bóng những người nông dân cặm cụi trốn đồng, những cánh cò mải miết, phảng phất phía xa những làn khói lam chiều...

Người sai lấy dao cắt bánh rồi chia cho mỗi người một miếng. Ai ăn cũng tấm tắc khen ngon. Nhà vua hỏi Lang Liêu:

- Ai bày cho con làm hai thứ bánh này? Chúng có ý nghĩa như thế nào?

Lang Liêu vội quỳ xuống thưa:

- Muôn tâu vua cha, thứ bánh hình tròn này chính là tượng cho bầu trời cao xa, nơi có đức Ngọc Hoàng cùng Tiên vương ngự trị, còn thứ bánh hình vuông này là tượng cho mặt đất rông lớn, nơi có vua cha đang cai quản, gìn giữ nên thái bình muôn thuở. Bánh được làm từ gạo nếp, đỗ xanh, thịt ngon do chính bàn tay con làm ra. Chính tấm lòng kính yêu của con đối với vua cha đã mách bảo cho con đấy ạ!

Vua đỡ Lang Liêu đứng dậy. Nhìn thẳng vào mắt chàng, Người nói:

- Con không những là một đứa con có hiếu mà còn là một người rất yêu lao động, biết quý trọng những gì do bàn tay lao động làm ra.

Rồi trước đông đủ văn võ bá quan, Người tuyên bố:

- Như ta đã nói từ trước, người nối ngôi ta phải nối được chí ta. Chí ta là muốn lo cho muôn dân được hưởng thái hình muôn thuở, ngày càng no đủ, sung túc. Muốn làm được điều đó, người đứng đầu thiên hạ phải hiểu được nghĩa lí của trời đất, phải biết yêu lao động, trân trọng từng hạt gạo do người nông dân đã phải một nắng hai sương, lam lũ vất vả làm ra. Lang Liêu tuy không phải là con trưởng, xưa nay cũng không mấy khi được ta quan tâm săn sóc nhưng nó lại là người gần ta và hiểu được ta hơn ai hết. Từ hôm nay, ta tuyên bố, Lang Liêu chính là người sẽ thay ta trị vì thiên hạ.

Mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô vang:

- Đức vua vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Nhà vua nói tiếp:

- Ta cũng tuyên bố, từ nay trở đi sẽ lấy hai thứ bánh này để cúng tổ tiên. Thứ bánh vuông này gọi là bánh chưng, bánh tròn gọi là bánh giầy...

Triều vua Hùng Vương thứ bảy đã được lập ra như thế đó. Và hai thứ bánh chưng, bánh giầy ngày ấy cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết, vẫn còn được lưu truyền cho mãi đến bây giờ.



kayuha
3 tháng 8 2019 lúc 17:01

Bài làm:

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, khi quây quần bên mâm cỗ, nhìn thấy hai thứ bánh chưng và bánh giầy, em lại nhớ đến câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy.

Lang Liêu là người con thứ mười tám của vua Hùng Vương. Tuy là hoàng tử nhưng chàng lại sống cuộc sống gần gũi với những người nông dân, chàng vốn thiệt thòi hơn so với các anh em của mình. Nhưng không lấy điều đó làm buồn, chàng yêu lao động và yêu những con người nông dân hiền lành, chất phác. Chàng suốt ngày ở ngoài đồng ruộng, vui vẻ với công việc đồng áng. Trong nhà chàng chẳng có gì, chỉ có lúa gạo và ngô khoai làm bạn. Sắp đến ngày lễ Tiên vương, vua cha cho gọi tất cả các con trai đến và phán: "Ta tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho người nào có thể nối được chí ta. Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho".

Nghe xong yêu cầu của vua cha, các lang ai cũng mừng vì chắc mẩm phần thắng nhất định sẽ thuộc về mình. Bởi thế, các lang đều cho người đi tìm những của ngon vật lạ, sản vật quý hiếm ở khắp mọi nơi trên thế gian này. Đối với Lang Liêu, chàng cũng có ước muốn được nối ngôi vua. Nhưng không phải vì chức tước mà chàng chỉ muốn đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ cho những người nông dân chân lấm, tay bùn. Sống cùng với những người dân nghèo nên Lang Liêu hiểu được nỗi khổ của họ. Về đến nhà, chàng suy nghĩ mãi xem sẽ dâng lễ vật gì cho ngày lễ Tiên vương. Chàng không có điều kiện như các anh mình, chàng chỉ có những thứ dân dã mà có lẽ vua chưa từng ăn. Bởi trong cung, người đã quen với các loại sơn hào hải vị. Chàng suy nghĩ, lo lắng không biết dâng lễ vật gì để tỏ tấm lòng mình. Một đêm, chàng gặp một vị thần râu tóc bạc phơ, cưỡi mây đến và nói với chàng: "Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, hiếm nhưng con người không làm ra được, chỉ có lúa gạo thì ta trồng được". Tỉnh dậy, lời thần cứ văng vẳng bên tai, Lang Liêu suy nghĩ cách làm bánh từ những sản vật dân dã hàng ngày. Chàng chọn thứ gạo nếp thật ngon, đem vo sạch, lấy đậu xanh và đồ thịt làm nhân, lấy lá dong bọc ra ngoài cùng, đem nấu thật nhừ. Cũng thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày lễ Tiên vương, trước bao nhiêu mâm lễ vật chất đầy những sơn hào hải vị, của ngon vật lạ được các lang cho người đi tìm kiếm khắp nơi mang về, mâm lễ vật của Lang Liêu trông thật đơn giản, chỉ có hai thứ bánh. Một thứ bánh màu xanh, hình vuông vắn, và một thứ bánh hình tròn, màu trắng. Nhưng mâm lễ của Lang Liêu khiến cho ai nấy cũng tò mò bởi họ chưa nhìn thấy hai thứ bánh ấy bao giờ. Các anh của Lang Liêu cũng thấy lạ, bao của ngon vật lạ họ đã từng ăn duy chỉ có hai thứ bánh kỳ lạ ấy là chưa từng được nếm thử.

Vua đi một lượt, nhìn các mâm lễ và dừng lại ở mâm của Lang Liêu. Vừa nhìn, nhà vua đã ưng ý ngay. Vua cảm thấy sự gần gũi và thân quen của hương vị quê hương. Vua liền chọn mâm lễ của Lang Liêu dâng lên cúng Tiên vương. Khi lễ xong, vua đem bánh chia cho mọi người, ai ăn cũng thấy lạ miệng và rất ngon. Mọi người đều tấm tắc khen.

Vua vui mừng đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng còn bánh hình tròn là bánh giầy. Bánh chưng là tượng trưng cho Đất, bánh giầy là tượng trưng cho Trời. Hai thứ bánh ấy, một tượng Đất, một tượng Trời, thể hiện sự giao hoà giữa Trời, Đất. Trước tất cả mọi người, vua khen Lang Liêu là người đã biết sử dụng những nguyên liệu dân dã, làm ra hai thứ bánh ngon. Hai thứ bánh này nhắc ta luôn nhớ đến sự vất vả, khó nhọc của người dân khi làm ra lúa gạo. Phải luôn biết quý lúa gạo. Lang Liêu xứng đáng là người nối ngôi ta, vua vừa truyền xong, tất cả quần thân và dân chúng đều hò reo và hô vang tên chàng.

Lang Liêu, người con trai thứ mười tám của vua Hùng lên ngôi, xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc. Vua chăm lo đến đời sống của người dân, gần gũi với người nông dân. Từ đó, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ nhà nào cũng không thể thiếu hai thứ bánh này. Nó trở thành hương vị không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam.

Huỳnh lê thảo vy
3 tháng 8 2019 lúc 19:01

Vua Hùng Vương thứ sáu mở cuộc thi chọn người nối ngôi. Vua ra điều kiện: trong lễ tế Tiên vương, ai làm vua hài lòng, người đó sẽ được truyền ngôi. Các lang liền toả đi khắp nơi tìm bạc vàng, châu báu, của ngon vật lạ để dâng lên. Thấy thế, Lang Liêu rất bối rối. Là con trai nhà vua nhưng chàng rất nghèo, không thể tìm được những đồ quý hiếm. Chàng băn khoăn, trằn trọc suy nghĩ...

Thế là sắp đến ngày lễ Tiên vương rồi. Ngày kia trong triều sẽ mở đại tiệc. Hẳn các lang anh đã chuẩn bị được nhiều của ngon vật lạ lắm. Nào là nem công chả phượng, nào là yến huyết, vi cá... Vua cha rồi sẽ khen nức nở, chỉ việc chọn món nào ngon nhất mà thôi. Mình không ham gì ngôi cao, chỉ mong ước được sống bình yên như thế này. Nhưng, dẫu sao cũng là tấm lòng, giá như mình có một món gì đó thật ý nghĩa tế lên Tiên vương và cũng là để thể hiện lòng thành kính đối với vua cha thì tốt quá.

Lang Liêu ngủ thiếp đi, trong mơ chàng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ chống gây đến nói:

- Lang Liêu ạ, ta biết con tuy nghèo nhưng rất có hiếu. Con chỉ muốn có một món quà gì đó để dâng lên Tiên vương và cũng để tỏ lòng hiếu thảo đối với vua cha phải không? Vậy ta hỏi con: Con làm nghề nông, trên đời cái gì cao nhất?

- Dạ, trời ạ!

- Thế cái gì gần gũi và quý nhất?

- Dạ, đất ạ!

- Vậy con hãy lấy những sản vật do chính tay con trồng cấy và nuôi nấng để làm ra món ăn gì đó vừa tượng hình được cho trời vừa tượng hình cho đất. Đó chính là món quà quý nhất con có thể dâng lên Tiên vương.

Cụ già nói xong liền hoá thành một làn khói mỏng bay đi. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy. Nhớ lại giấc mơ vừa qua, chàng vô cùng mừng rỡ.

Sáng hôm sau, Lang Liêu nhờ mẹ lấy cho ít lá vẫn dùng làm bánh. Chàng chọn thứ gạo ngon nhất, trắng nhất, mổ một con lợn béo lấy những miếng thịt ngon nhất. Sau đó chàng lấy lá gói thành thứ bánh vuông vức như mặt đất bao la. Xong xuôi chàng cho vào nồi luộc. Qua mấy canh giờ, mùi bánh chín bốc lên thơm nức cả làng xóm. Ai đi qua cũng ghé vào xem, khen rằng chưa từng có ai gói được thứ bánh thơm như thế. Cũng thứ cơm nếp thơm ngon ấy, chàng giã mịn, nặn thành thứ bánh tròn vành vạnh như bầu trời buổi sớm.

Sáng hôm sau, mẹ Lang Liêu đội mâm bánh tròn đi trước, Lang Liêu đội mâm bánh vuông theo sau. Hai mẹ con vào đến trong cung thì mọi người đã về tựu đông đủ.

Lỗ Tiên vương xong, vua cùng các quan đại thần đi một vòng qua các mâm cỗ nếm thử. Đến mâm nào Người cũng chỉ nếm qua một miếng, tỏ vẻ không vui. Như: gan hùm, tay gấu, tim voi, đến cả vi cá mập,.... Người cũng vẫn thường ăn hàng ngày, có gì lạ đâu? Người buồn vì thấy trước một thử thách như thế, các lang không nghĩ được cái gì có ý nghĩa, chỉ biết có mỗi cách là đi các nơi tìm của ngon vật lạ.

Đến hai mâm bánh cùa Lang Liêu, nhà vua bỗng dừng lại, ngẫm nghĩ. Từ hai mâm bánh bình dị toát lên mội thứ mùi vị thật nồng nàn, thân thuộc. Mùi của nếp mới quyện trong sương sớm, của rơm tươi vừa gặt toả ra ngan ngát. Trong làn hương thoang thoảng, thấp thoáng bóng những người nông dân cặm cụi trốn đồng, những cánh cò mải miết, phảng phất phía xa những làn khói lam chiều...

Người sai lấy dao cắt bánh rồi chia cho mỗi người một miếng. Ai ăn cũng tấm tắc khen ngon. Nhà vua hỏi Lang Liêu:

- Ai bày cho con làm hai thứ bánh này? Chúng có ý nghĩa như thế nào?

Lang Liêu vội quỳ xuống thưa:

- Muôn tâu vua cha, thứ bánh hình tròn này chính là tượng cho bầu trời cao xa, nơi có đức Ngọc Hoàng cùng Tiên vương ngự trị, còn thứ bánh hình vuông này là tượng cho mặt đất rông lớn, nơi có vua cha đang cai quản, gìn giữ nên thái bình muôn thuở. Bánh được làm từ gạo nếp, đỗ xanh, thịt ngon do chính bàn tay con làm ra. Chính tấm lòng kính yêu của con đối với vua cha đã mách bảo cho con đấy ạ!

Vua đỡ Lang Liêu đứng dậy. Nhìn thẳng vào mắt chàng, Người nói:

- Con không những là một đứa con có hiếu mà còn là một người rất yêu lao động, biết quý trọng những gì do bàn tay lao động làm ra.

Rồi trước đông đủ văn võ bá quan, Người tuyên bố:

- Như ta đã nói từ trước, người nối ngôi ta phải nối được chí ta. Chí ta là muốn lo cho muôn dân được hưởng thái hình muôn thuở, ngày càng no đủ, sung túc. Muốn làm được điều đó, người đứng đầu thiên hạ phải hiểu được nghĩa lí của trời đất, phải biết yêu lao động, trân trọng từng hạt gạo do người nông dân đã phải một nắng hai sương, lam lũ vất vả làm ra. Lang Liêu tuy không phải là con trưởng, xưa nay cũng không mấy khi được ta quan tâm săn sóc nhưng nó lại là người gần ta và hiểu được ta hơn ai hết. Từ hôm nay, ta tuyên bố, Lang Liêu chính là người sẽ thay ta trị vì thiên hạ.

Mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô vang:

- Đức vua vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Nhà vua nói tiếp:

- Ta cũng tuyên bố, từ nay trở đi sẽ lấy hai thứ bánh này để cúng tổ tiên. Thứ bánh vuông này gọi là bánh chưng, bánh tròn gọi là bánh giầy...

Triều vua Hùng Vương thứ bảy đã được lập ra như thế đó. Và hai thứ bánh chưng, bánh giầy ngày ấy cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết, vẫn còn được lưu truyền cho mãi đến bây giờ.



momochi
3 tháng 8 2019 lúc 20:03

Tham khảo

Bập bùng… Bập bùng…. Ngọn lửa bùng lên bên nồi bánh chưng. Lửa mang hơi xuân khe khẽ len vào từng con ngõ nhỏ. Lửa mang sức xuân bung nở hoa đào, hoa mai. Và ngọn lửa chờn vờn như đang khơi dậy những hồi ức, hồi ức về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.

Chuyện xảy ra cũng từ rất lâu rồi. Vua Hùng Vương đời thứ sáu muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đagns Vua bèn gọi các con lại và nói:

– Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân đã xâm lấn bờ cõi của chúng ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, nhân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thiên hạ hưởng hạnh phúc, bình yên. Nay ta đã già rồi, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:

– Lang Liêu ! Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.

Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.

Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, trước sân cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các lang lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu và rất ngạc nhiên. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể việc được thần báo mộng. Vua cha nói:

– Bánh này hình vuông, tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bao bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần xung quanh để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vùa hiển minh.

Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và cũng từ đấy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy đã ca ngợi các vua Hùng có công dựng nước và giải thích cho chúng ta về phong tục làm bánh chưng, bánh giầy

Tạ Khánh Linh
3 tháng 8 2019 lúc 20:20
Buổi tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc in rõ từng cành lá xuống sân gạch. Tôi ngồi lặng yên nghe mẹ đọc truyện Bánh chưng, bánh dày. Giọng của mẹ thật ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh chàng Lang Liêu hiền lành chân chất cứ hiện lên rõ nét trong trí tưởng tượng của tôi. Trăng sáng quá! Gió lại hiu hiu thổi, tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng trong trẻo, bước chân tôi nhẹ tênh theo câu chuyện về chiếc bánh mẹ vừa kể. Bước chân tôi lang thang trên những cánh đồng ngạt ngào hương lúa, xa xa những triền khoai lang xanh rờn, bỗng tôi thấy một anh nông dân đang cặm cụi nhặt từng ngọn cỏ trên ruộng lúa. Nhìn gương mặt anh có nét gì đó quen quen, tôi bước lại gần hơn: – A! Chào anh Lang Liêu! Sao anh lại ở đây? Tôi reo lên thích thú khi nhận ra đó chính là Lang Liêu, chàng trai hiền lành trong câu chuyện Bánh chưng, bánh dày. Nghe thấy giọng nói lảnh lót của tôi anh nông dân ngừng tay làm, nhìn tôi mỉm cười, nói: – Chào em gái! Lẽ ra anh phải hỏi em điều đó chứ! Tôi chợt hiểu và giới thiệu: – Em quên mất, em là Linh, năm nay em học lớp 7, ngày mai lớp em có tiết văn học về Bánh chưng, bánh dày thế mà hôm nay em lại được gặp anh, thật là vui quá! Nghe nhắc đến chuyện bánh chưng, bánh giầy anh nông dân có vẻ trầm ngâm, tôi thì vô cùng sung sướng vì đây là một cơ hội hiếm có để được nghe chính chàng Lang Liêu kể cho nghe về cuộc đời của mình. Đoán được suy nghĩ của tôi anh mỉm cười và nói: – Em có muốn anh kể cho em nghe về cuộc thi tài kén vua của phụ vương anh không? Tôi thích thú: – Có ạ! Anh hãy kể cho em nghe đi. Lang Liêu đưa đôi mắt nhìn ra xa, anh bắt đầu kể, giọng như trầm xuống. – Ta sinh ra trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, mẹ ta chẳng được vua yêu chiều như những vương phi khác nên khi sinh ra chỉ có mẹ con quấn quýt bên nhau, chẳng bao lâu bà mất sớm, để lại ta một mình côi cút. Thế là cũng từ đó ta chăm chỉ với ruộng đồng, khoai lúa. Cuộc sống cứ ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc ta đã thành chàng trai trưởng thành, mạnh khoẻ. Ngày ngày, ta vui với công việc đồng áng của mình, chẳng dám màng đến công danh, bổng lộc của triều đình. Một hôm, đang lúi húi vun mấy khóm khoai trước nhà bỗng ta nhận được lệnh vua vời vào trầu. – Thế anh có lo lắng không? Tôi sốt sắng hỏi. Lang Liêu chậm giãi trả lời: – Ta cũng cảm thấy hơi lo lắng vì lâu rồi không vào triều, biết đâu phụ vương giận hoặc đau yếu. Bởi vậy, sau khi nhận được lệnh, ta vội vã thay quần áo vào chầu phụ vương. Trên đường đến đấy, ta đã nghe nói vua cha nay cảm thấy già yếu nên muốn tìm một người nối ngôi, chỉ cần người đó có tài chứ không nhất thiết là con trưởng hay con thứ. Khi ta đến nơi, tất cả mọi người đã đến đông đủ và tất nhiên có cả các anh của ta. Trên ngai vàng, vua cha đã có vẻ già yếu hơn trước nhiều. Sau khi tuyên bố lí do của buổi triệu tập, Ngài nói: – Tới ngày lễ tiên Vương, ai làm vừa lòng ta thì ta sẽ truyền cho người ấy ngôi báu để tiếp tục trị vì đất nước. Nghe đến đây tôi lại buột miệng hỏi: – Chắc anh lo lắng lắm khi nhận được tin này bởi anh rất nghèo, đâu có những thứ quý giá dâng lên vua cha. Lang Liêu nhìn tôi gật đầu, chàng tiếp: – Sau khi nghe lời vua cha phán truyền, các anh của ta có vẻ rất vui mừng vì trong tay họ có biết bao ngọc ngà châu báu, họ muốn gì mà chẳng có, còn ta nhìn khắp nhà chỉ thấy toàn lúa, sắn, khoai, không có thứ gì là giá trị cả, biết lấy gì để dâng lên Tiên Vương. Thực
ra ta cũng không có ý tranh giành ngôi báu nhưng ta cũng muốn làm đẹp lòng phụ vương.
Suốt mấy ngày sau đó, ta mất ăn mất ngủ vì nghĩ đến món quà sẽ dâng lên phụ vương. Lòng ta ngổn ngang trăm mối, nếu đi mua đồ quý như các anh của ta thì ta không có tiền còn nếu dâng lên chỉ khoai và sắn thì chắc chắn phụ vương sẽ buồn lòng vì những thứ tầm thường đó. Một đêm, sau một hồi trằn trọc suy nghĩ ta liền ngủ thiếp, trong giấc ngủ, ta thấy một vị thần hiện lên mách rằng: hãy lấy chính những sản phẩm mà mình làm ra để dâng lên Tiên Vương. Ta sung sướng và chợt tỉnh giấc. Ngay sáng hôm đó, ta bắt tay vào làm bánh như lời thần báo mộng. Ta tìm một thứ gạo nếp ngon nhất đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong xanh gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ. Và loại bánh thứ hai ta nghĩ cần phải thay đổi nên ta đem gạo đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông biểu tượng cho trời, bánh hình vuông biểu tượng cho đất. Đến ngày lễ Tiên Vương, ta đem hai loại bánh đó vào cung. Nhìn chồng bánh bằng lúa gạo của ta, không ít người xem thường bởi nó vô cùng bình thường so với những món sơn hào hải vị, nem công chả phượng của các lang. Ta cũng chẳng hi vọng điều gì cả mà chỉ mong đẹp lòng tổ tiên bằng chính tấm lòng thành của mình. Tất cả các lễ vật được bày ra trước mặt đức vua, ai ai cũng hồi hộp hi vọng vua cha chọn lễ vật của mình. Đức vua đi đi lại lại trước món lễ vật của các lang. Gương mặt đăm chiêu có lẽ người đang băn khoăn giữa các món mà các lang dâng lên. Vua cha nhìn mọi thứ
với thái độ điềm tĩnh, người xem xét từng món ăn, nhấp nháp sơ qua, gương mặt vẫn không biểu thị một thái độ gì, có lẽ người vẫn chưa ưng ý một món ăn nào cả. Các anh của ta, nhiều người đã tỏ ra thất vọng khi thấy vua cha lướt qua món ăn của mình rất nhanh. Hai loại bánh của ta được đặt ở sau cùng, khi đứng bên mâm bánh của ta, người dừng hẳn bước chân, đôi mắt chăm chú nhìn, có lẽ
người thấy ngạc nhiên vì thực ra mâm bánh của ta trông khác hẳn các món sơn hào hải vị khác. Sau khi nhìn ngắm, người liền cầm từng chiếc bánh lên tỏ vẻ thích thú, bỗng người cất tiếng hỏi:
– Chiếc bánh này làm bằng gì hả Lang Liêu? Ta bẩm: – Thưa phụ vương! Hai loại bánh này được làm bằng gạo, đây là những sản phẩm do chính bàn tay con làm nên. Ánh mắt cha nhìn ta trìu mến, điều mà lâu nay ta ít thấy. Và sau khi nghe ta giới thiệu cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh, vua cha vô cùng kinh ngạc. Đức vua liền cắt ra cho tất cả mọi người cùng ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua cha nói: – Trong tất cả các món lễ vật dâng lên Tiên Vương hôm nay, ta ưng ý nhất là món bánh của Lang Liêu, nó vừa mang ý nghĩa là biểu tượng của đất trời, của sự no đủ, đoàn kết vừa thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của một người con có hiếu. Do vậy, ta quyết định chọn
Lang Liêu là người thừa kế ngôi vị.
Tôi thích thú nghe câu chuyện Lang Liêu vừa kể và cảm thấy vô cùng khâm phục, kính trọng anh. Nhưng tôi ngạc nhiên vì thấy vua Lang Liêu chẳng khác gì anh nông dân cả. Đọc được suy nghĩ của tôi Lang Liêu cười lớn và nói: – Hôm nay ta vi hành về nơi thôn quê để dạy dân cách cấy cày, chăm sóc lúa, khoai. Nói xong Lang Liêu liền tạm biệt tôi để đi ra phía ngoài xa kia, ở đó bà con nông dân đang đợi anh. Vừa nói anh vừa bước đi rất nhanh, tôi liền gọi với theo: – Anh Lang Liêu! Anh Lang Liêu! Cho em đi cùng với! Vừa lúc đó tôi tỉnh giấc thấy mẹ đang ngồi bên cạnh, mẹ hỏi: – Con vừa ngủ mơ đúng không? Mẹ thấy con ú ớ gọi ai đó. Tôi dụi mắt tỉnh giấc, hoá ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thật đẹp. Thấy tôi vẫn ngồi mủm mỉm cười, mẹ liền bảo: – Con dậy vào nhà ngủ đi để mai còn kịp đi học. Vậy là giờ đây tôi hiểu vì sao cứ đến tết mẹ tôi lại gói bánh chưng. Chiếc bánh chưng thật có ý nghĩa.
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
5 tháng 8 2019 lúc 11:05

Bài làm tham khảo :

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, khi quây quần bên mâm cỗ, nhìn thấy hai thứ bánh chưng và bánh giầy, em lại nhớ đến câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy.

Lang Liêu là người con thứ mười tám của vua Hùng Vương. Tuy là hoàng tử nhưng chàng lại sống cuộc sống gần gũi với những người nông dân, chàng vốn thiệt thòi hơn so với các anh em của mình. Nhưng không lấy điều đó làm buồn, chàng yêu lao động và yêu những con người nông dân hiền lành, chất phác. Chàng suốt ngày ở ngoài đồng ruộng, vui vẻ với công việc đồng áng. Trong nhà chàng chẳng có gì, chỉ có lúa gạo và ngô khoai làm bạn. Sắp đến ngày lễ Tiên vương, vua cha cho gọi tất cả các con trai đến và phán: "Ta tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho người nào có thể nối được chí ta. Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho".

Nghe xong yêu cầu của vua cha, các lang ai cũng mừng vì chắc mẩm phần thắng nhất định sẽ thuộc về mình. Bởi thế, các lang đều cho người đi tìm những của ngon vật lạ, sản vật quý hiếm ở khắp mọi nơi trên thế gian này. Đối với Lang Liêu, chàng cũng có ước muốn được nối ngôi vua. Nhưng không phải vì chức tước mà chàng chỉ muốn đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ cho những người nông dân chân lấm, tay bùn. Sống cùng với những người dân nghèo nên Lang Liêu hiểu được nỗi khổ của họ. Về đến nhà, chàng suy nghĩ mãi xem sẽ dâng lễ vật gì cho ngày lễ Tiên vương. Chàng không có điều kiện như các anh mình, chàng chỉ có những thứ dân dã mà có lẽ vua chưa từng ăn. Bởi trong cung, người đã quen với các loại sơn hào hải vị. Chàng suy nghĩ, lo lắng không biết dâng lễ vật gì để tỏ tấm lòng mình. Một đêm, chàng gặp một vị thần râu tóc bạc phơ, cưỡi mây đến và nói với chàng: "Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, hiếm nhưng con người không làm ra được, chỉ có lúa gạo thì ta trồng được". Tỉnh dậy, lời thần cứ văng vẳng bên tai, Lang Liêu suy nghĩ cách làm bánh từ những sản vật dân dã hàng ngày. Chàng chọn thứ gạo nếp thật ngon, đem vo sạch, lấy đậu xanh và đồ thịt làm nhân, lấy lá dong bọc ra ngoài cùng, đem nấu thật nhừ. Cũng thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày lễ Tiên vương, trước bao nhiêu mâm lễ vật chất đầy những sơn hào hải vị, của ngon vật lạ được các lang cho người đi tìm kiếm khắp nơi mang về, mâm lễ vật của Lang Liêu trông thật đơn giản, chỉ có hai thứ bánh. Một thứ bánh màu xanh, hình vuông vắn, và một thứ bánh hình tròn, màu trắng. Nhưng mâm lễ của Lang Liêu khiến cho ai nấy cũng tò mò bởi họ chưa nhìn thấy hai thứ bánh ấy bao giờ. Các anh của Lang Liêu cũng thấy lạ, bao của ngon vật lạ họ đã từng ăn duy chỉ có hai thứ bánh kỳ lạ ấy là chưa từng được nếm thử.

Vua đi một lượt, nhìn các mâm lễ và dừng lại ở mâm của Lang Liêu. Vừa nhìn, nhà vua đã ưng ý ngay. Vua cảm thấy sự gần gũi và thân quen của hương vị quê hương. Vua liền chọn mâm lễ của Lang Liêu dâng lên cúng Tiên vương. Khi lễ xong, vua đem bánh chia cho mọi người, ai ăn cũng thấy lạ miệng và rất ngon. Mọi người đều tấm tắc khen.

Vua vui mừng đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng còn bánh hình tròn là bánh giầy. Bánh chưng là tượng trưng cho Đất, bánh giầy là tượng trưng cho Trời. Hai thứ bánh ấy, một tượng Đất, một tượng Trời, thể hiện sự giao hoà giữa Trời, Đất. Trước tất cả mọi người, vua khen Lang Liêu là người đã biết sử dụng những nguyên liệu dân dã, làm ra hai thứ bánh ngon. Hai thứ bánh này nhắc ta luôn nhớ đến sự vất vả, khó nhọc của người dân khi làm ra lúa gạo. Phải luôn biết quý lúa gạo. Lang Liêu xứng đáng là người nối ngôi ta, vua vừa truyền xong, tất cả quần thân và dân chúng đều hò reo và hô vang tên chàng.

Lang Liêu, người con trai thứ mười tám của vua Hùng lên ngôi, xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc. Vua chăm lo đến đời sống của người dân, gần gũi với người nông dân. Từ đó, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ nhà nào cũng không thể thiếu hai thứ bánh này. Nó trở thành hương vị không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam.

vũ tiến đạt
7 tháng 8 2019 lúc 15:38

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, khi quây quần bên mâm cỗ, nhìn thấy hai thứ bánh chưng và bánh giầy, em lại nhớ đến câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy.

Lang Liêu là người con thứ mười tám của vua Hùng Vương. Tuy là hoàng tử nhưng chàng lại sống cuộc sống gần gũi với những người nông dân, chàng vốn thiệt thòi hơn so với các anh em của mình. Nhưng không lấy điều đó làm buồn, chàng yêu lao động và yêu những con người nông dân hiền lành, chất phác. Chàng suốt ngày ở ngoài đồng ruộng, vui vẻ với công việc đồng áng. Trong nhà chàng chẳng có gì, chỉ có lúa gạo và ngô khoai làm bạn. Sắp đến ngày lễ Tiên vương, vua cha cho gọi tất cả các con trai đến và phán: "Ta tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho người nào có thể nối được chí ta. Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho".

Nghe xong yêu cầu của vua cha, các lang ai cũng mừng vì chắc mẩm phần thắng nhất định sẽ thuộc về mình. Bởi thế, các lang đều cho người đi tìm những của ngon vật lạ, sản vật quý hiếm ở khắp mọi nơi trên thế gian này. Đối với Lang Liêu, chàng cũng có ước muốn được nối ngôi vua. Nhưng không phải vì chức tước mà chàng chỉ muốn đem lại cuộc sống ấm no, đầy đủ cho những người nông dân chân lấm, tay bùn. Sống cùng với những người dân nghèo nên Lang Liêu hiểu được nỗi khổ của họ. Về đến nhà, chàng suy nghĩ mãi xem sẽ dâng lễ vật gì cho ngày lễ Tiên vương. Chàng không có điều kiện như các anh mình, chàng chỉ có những thứ dân dã mà có lẽ vua chưa từng ăn. Bởi trong cung, người đã quen với các loại sơn hào hải vị. Chàng suy nghĩ, lo lắng không biết dâng lễ vật gì để tỏ tấm lòng mình. Một đêm, chàng gặp một vị thần râu tóc bạc phơ, cưỡi mây đến và nói với chàng: "Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, hiếm nhưng con người không làm ra được, chỉ có lúa gạo thì ta trồng được". Tỉnh dậy, lời thần cứ văng vẳng bên tai, Lang Liêu suy nghĩ cách làm bánh từ những sản vật dân dã hàng ngày. Chàng chọn thứ gạo nếp thật ngon, đem vo sạch, lấy đậu xanh và đồ thịt làm nhân, lấy lá dong bọc ra ngoài cùng, đem nấu thật nhừ. Cũng thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày lễ Tiên vương, trước bao nhiêu mâm lễ vật chất đầy những sơn hào hải vị, của ngon vật lạ được các lang cho người đi tìm kiếm khắp nơi mang về, mâm lễ vật của Lang Liêu trông thật đơn giản, chỉ có hai thứ bánh. Một thứ bánh màu xanh, hình vuông vắn, và một thứ bánh hình tròn, màu trắng. Nhưng mâm lễ của Lang Liêu khiến cho ai nấy cũng tò mò bởi họ chưa nhìn thấy hai thứ bánh ấy bao giờ. Các anh của Lang Liêu cũng thấy lạ, bao của ngon vật lạ họ đã từng ăn duy chỉ có hai thứ bánh kỳ lạ ấy là chưa từng được nếm thử.

Vua đi một lượt, nhìn các mâm lễ và dừng lại ở mâm của Lang Liêu. Vừa nhìn, nhà vua đã ưng ý ngay. Vua cảm thấy sự gần gũi và thân quen của hương vị quê hương. Vua liền chọn mâm lễ của Lang Liêu dâng lên cúng Tiên vương. Khi lễ xong, vua đem bánh chia cho mọi người, ai ăn cũng thấy lạ miệng và rất ngon. Mọi người đều tấm tắc khen.

Vua vui mừng đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng còn bánh hình tròn là bánh giầy. Bánh chưng là tượng trưng cho Đất, bánh giầy là tượng trưng cho Trời. Hai thứ bánh ấy, một tượng Đất, một tượng Trời, thể hiện sự giao hoà giữa Trời, Đất. Trước tất cả mọi người, vua khen Lang Liêu là người đã biết sử dụng những nguyên liệu dân dã, làm ra hai thứ bánh ngon. Hai thứ bánh này nhắc ta luôn nhớ đến sự vất vả, khó nhọc của người dân khi làm ra lúa gạo. Phải luôn biết quý lúa gạo. Lang Liêu xứng đáng là người nối ngôi ta, vua vừa truyền xong, tất cả quần thân và dân chúng đều hò reo và hô vang tên chàng.

Lang Liêu, người con trai thứ mười tám của vua Hùng lên ngôi, xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc. Vua chăm lo đến đời sống của người dân, gần gũi với người nông dân. Từ đó, cứ vào dịp Tết, trên bàn thờ nhà nào cũng không thể thiếu hai thứ bánh này. Nó trở thành hương vị không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam.



Các câu hỏi tương tự
Hồng Phạm
Xem chi tiết
Ngô Thị Ánh Hoàng
Xem chi tiết
Nguyễn Quốc Lộc
Xem chi tiết
Trang XU
Xem chi tiết
Mỹ Viên
Xem chi tiết
Nguyễn Trang
Xem chi tiết
Miku
Xem chi tiết
Nguyễn Quốc Lộc
Xem chi tiết
Phạm Quang Tiến
Xem chi tiết
Cô Nàg NgỐc
Xem chi tiết