An Lộc Sơn:
An Lộc Sơn, cha thuộc dân tộc Hề Túc Đặc; mẹ thuộc bộ tộc Đột Quyết. Mồ côi cha lúc nhỏ, mẹ cải giá lấy viên quan Đột Quyết An Diên Yển; bèn dùng họ An và đổi tên là Lộc Sơn. An Lộc Sơn thông hiểu 6 thứ tiếng, nên lúc khởi đầu giữ chức Hỗ thị nha lang với nhiệm vụ thông dịch trong việc buôn bán. Làm con nuôi Tiết soái Trương Thủ Khuê, được thăng chức Thiên lô Tướng quân. Đường Khai Nguyên thứ 28 [740], An Lộc Sơn giữ chức Binh mã sứ Bình Lô [Triều Dương thị, tỉnh Liêu Ninh], tính nhanh nhẹn mẫn tiệp nên được tiếng khen; y dùng lễ vật hối lộ cho các quan, đem tiếng khen đến tai vua Huyền Tông, nên được nhà vua yêu thích. Năm Thiên Bảo thứ nhất [742] Đường Huyền Tông lập Tiết độ sứ Bình Lô, giao cho An Lộc Sơn làm Tiết độ sứ. Từ đó An Lộc Sơn có dịp vào triều tấu bàn, được Đường Huyền Tông sủng ái thêm. Năm Thiên Bảo thứ 3 [744] thay Bùi Khoan giữ chức Tiết độ sứ Phạm Dương [Bắc Kinh]; vẫn kiêm nhiệm chức Thái phỏng Hà Bắc, Tiết độ sứ Bình Lô. Sau này An Lộc Sơn xin làm con nuôi Dương Quí Phi, mỗi lần đến triều kiến Đường Huyền Tông đều bái yết Dương Quí Phi trước; Huyền Tông lấy làm lạ bèn hỏi, Lộc Sơn tâu:
“Thần là người Hồ, theo tục người Hồ đặt mẹ lên trước, cha sau.”
Huyền Tông nghe rất vui, mệnh anh em nhà họ Dương kết bà con, xưng anh chị em với An Lộc Sơn. An Lộc Sơn càng cao tuổi càng mập, bụng phệ xuống gần đầu gối, nặng 330 cân [115 kg], lúc đi phải chuyển dịch bằng 2 vai mới động thân được; nhưng khi múa vũ dân tộc Hồ cho vua Huyền Tông xem thì nhanh như gió. Năm Thiên Bảo thứ 10 [751] An Lộc Sơn đến kinh sư triều kiến vua Huyền Tông, xin đảm nhiệm Tiết độ sứ Hà Đông [Sơn Tây], được chấp thuận; Lộc Sơn có 11 con: con trưởng An Khánh Tông giữ chức Thái bốc lang, em là An Khánh Tự giữ chức Hồng lô khanh; An Khánh Tông lấy con gái Hoàng thái tử.
1. Chuẩn bị nổi loạn.
An Lộc Sơn ngầm chuẩn bị làm loạn, tại phía bắc thành Phạm Dương cho xây thêm thành Hùng Vũ, ngoài mặt bảo rằng để chống giặc phương bắc, nhưng thực chất dùng để tích trữ nhiều vũ khí, lương thực, ngựa chiến 1 vạn 5 ngàn con, dê cũng có số tương đương. Một mình Lộc Sơn kiêm nhiệm Tiết độ sứ 3 trấn Bình Lô, Phạm Dương, Hà Đông; tương đương với 3 tỉnh Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Tây ngày nay.
Tháng 6 năm Thiên Bảo thứ 11 [752] An Lộc Sơn mang trên 5 vạn kỵ binh đánh Khiết Đan, quân viễn chinh tiến xa, cách thành Bình Lô hàng ngàn dặm; cuối cùng bị Khiết Đan đánh kẹp, phân tán tháo chạy trở về thành Bình Lô. Sau đó lại cố lập công, mang quân đánh các bộ tộc Hề, Khiết Đan, thu thắng lợi; Đường Huyền Tông cho y là tướng giỏi như thành luỹ vững giữ nước, nên ban lời khen “An biên trường thành”. Nhưng Thừa tướng Dương Quốc Trung nhiều lần tâu rằng An Lộc Sơn nhất định sẽ phản loạn; nên năm Thiên Bảo thứ 12 [753] Huyền Tông sai Hoạn quan Phụ Tốc Lâm đến dò xét, Viên này nhận hối lộ của An Lộc Sơn nên trở về tâu rằng An Lộc Sơn lòng trung thành sáng tỏ.
Tháng giêng năm Thiên Bảo thứ 13 [754] An Lộc Sơn đến cung Hoa Thanh yết kiến Đường Minh Hoàng, thừa dịp khóc than:
“Thần là người dân tộc Hề, không biết chữ Hán; được Hoàng thượng vượt cấp đề bạt, nên Dương Quốc Trung muốn giết.”
Đường Huyền Tông nghe vậy, lại tỏ ra tin cẩn thân thiết hơn, thăng thêm chức Tả bộc xạ. Lúc này ai mà nói An Lộc Sơn âm mưu tạo phản, Huyên Tông bèn nổi giận lôi đình, bắt trói giao cho Lộc Sơn!
1. Chuẩn bị nổi loạn.
Thời vua Đường Huyền Tông niên hiệu Khai Nguyên bước sang Thiên Bảo, vận nước bắt đầu từ thịnh chuyển sang suy. Do vấn đề quản chế quân tại biên thuỳ buông lỏng, cấm quân tại trung ương thì bạc nhược; khiến thực lực biên trấn mạnh hơn trung ương. An Lộc Sơn đặt mật báo tại kinh đô, nắm rõ nội tình, nên càng khinh thường triều đình. Sau khi Tể tướng Lý Lâm Phủ mất, trong triều An Lộc Sơn không còn kiêng kỵ ai nữa; lại bất hoà với tân Tể tướng Dương Quốc Trung, nên hai họ Dương, An tranh nhau đả kích, dành sủng ái từ nhà vua. Ngoài ra do bất hoà với Thái tử Lý Hanh [vua Túc Tông sau này], An Lộc Sơn cảm thấy bất an trong tương lai, thúc đẩy tham vọng sẵn trong lòng dấn thân vào cuộc nổi dậy.
Năm Thiên Bảo thứ 14 [755] Đường Huyền Tông triệu Lộc Sơn vào kinh, y cáo bệnh từ chối. Tháng 11 cùng năm, An Lộc Sơn từ Phạm Dương [Bắc Kinh] khởi binh làm phản; gian trá tuyên bố rằng phụng chiếu chỉ của Đường Huyền Tông, đánh dẹp bè đảng ngỗ nghịch Dương Quốc Trung. Lộc Sơn đốc suất kỵ binh, bộ binh 15 vạn, xuất phát lúc nửa đêm, một ngày tiến được 60 lý; dùng Cao Thượng, Nghiêm Trang làm mưu chủ; Tôn Hiếu Triết, Cao Mạo, Hà Thiên Niên làm thành viên chủ chốt. Bấy giờ trong nước bình yên đã lâu, dân chúng không quen việc chinh chiến; nghe tin An Lộc Sơn phản loạn bùng nổ, triều đình quan quân giao động sợ sệt. Những lính bảo vệ cung đình phần lớn tuyển từ con cái dân buôn tại kinh thành, không có lòng quyết chí chiến đấu; trước sau triều đình dùng những người như Cao Tiên Chi, Phong Thường Thanh làm Đại tướng lo việc chống cự.
Tháng 12 quân An Lộc Sơn vượt sông Hoàng Hà tấn công vào quận Trần Lưu [Khai Phong thị, Hà Nam];Tiết độ sứ Hà Nam tử trận, con trai lớn của An Lộc Sơn là An Khánh Tông cũng bị giết; việc này khiến Lộc Sơn tức giận bắt quân đầu hàng chia làm 2 phe chém giết lẫn nhau. Khi đến thành Trần Lưu, Thái thú Quách Nạp chống cự một lúc, rồi mở cửa thành ra hàng.
Phong Thường Thanh bố trí chặn địch tại phía đông cố đô Lạc Dương, cho đốn cây làm chướng ngại vật, nhưng không ngăn chặn được. Quân An Lộc Sơn tiến vào thành Lạc Dương, giết bọn Ngự sử Tưởng Thanh, rồi gọi Hà Nam duẫn Đạt Hề Tuần cho coi thành. Sau khi thất bại, Phong Thường Thanh mang bại binh rút về Thiểm quận [Tam Môn Hiệp thị, Hà Nam]; bấy giờ Cao Tiên Chi mang quân giữ Thiểm thành cũng sợ rút về Đồng Quan [giáp giới Hà Nam-Thiểm Tây], quan quân sợ hãi quân An Lộc Sơn truy cản, dẫm đạp vào nhau tắc nghẽn cả đường sá.
Tháng giêng năm Thiên Bảo thứ 15 [756] An Lộc Sơn xưng Đế, đặt tên nước là Yên, niên hiệu Cảnh Vũ; dùng những người như Đạt Hề Tuần giữ các chức như Thừa tướng. Tháng 5, Tiết độ sứ Nam Dương Lỗ Linh mang 10 vạn quân Kinh Châu, Tương Châu, Kiềm Trung, Kiềm Nam đánh nhau với tướng Vũ Linh Tuần thuộc phe nổi dậy tại phía bắc sông Phân Hà thuộc huyện Diệp [Hà Nam], nhưng toàn quân bị sụp đổ. Tháng 6, Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi từ Thổ Môn Lộ mang quân đánh; bại quân làm phản tại Gia Sơn thuộc quận Thường Sơn [Thạch Gia Trang, Hà Bắc] khiến cho một số châu quận tại Hà Bắc xin hàng triều đình; việc này khiến cho An Lộc Sơn lo lắng, muốn mang quân về giữ căn cứ Phạm Dương [Bắc Kinh]. Gặp lúc Ca Thư Hàn bị Đường Huyền Tông ép, mang 8 vạn kỵ binh từ Đồng Quan đến Linh Bảo [Linh Bảo thị, Hà Nam] giao chiến với phản tướng Thôi Càn Hữu, đạo quân bị đánh sụp gần toàn bộ; Ca Thư Hàn về đến Đồng Quan, bị quân lính dưới quyền bắt giao cho quân làm phản. Đồng Quan thất thủ, Đường Huyền Tông cùng cung phi, tôn thất hốt hoảng chạy loạn. Trên đường qua đất Thục, tại gò Mã Ngôi quân sĩ làm reo không chịu cất bước, kết tội Dương Quí Phi tư thông với An Lộc Sơn. Trước sự đòi hỏi của quan quân, vua đành gạt nước mắt để cho Dương Quí Phi bị xử thắt cổ; rồi theo đoàn quân đi lên ải Kiếm Các vào đất Thục. Tấn thảm kịch được Thi sĩ Bạch Cư Dị ghi lại trong thi phẩm Trường Hận Ca như sau:
…Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá Nghê Thường vũ y khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành.
Thuý hoa giao giao hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân bất phát vô nại hà,
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử.
Hoa điền uỷ địa vô nhân thâu,
Thuý kiều kim tước ngọc tạo đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lệ tương hoà lưu.
Hoàng ai tán mạn phong tiêu tác,
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các….
(Tiếng trống nổi dậy tại quận Ngư Dương [Bắc Kinh] đánh dồn dập.
Phá hỏng đêm truy hoan thưởng thức vũ khúc Nghê Thường của nhà vua.
Kinh thành khói lửa dấy lên,
Đứng chí tôn và vạn quân kỵ từ Trường An di chuyển theo hướng tây nam,
Ngọn cờ Thuý hoa phất phơ, hết đi rồi lại đứng.
Ra khỏi kinh đô đến hơn 100 lý,
Lục quân [quân dưới quyền vua] không chịu đi, không biết làm sao đây!
Người đẹp mày ngài Dương Quí Phi đành phải chết trước lưng ngựa.
Lược ngọc hoa điền cùng cặp tóc kim tước của nàng rơi xuống đất, mà không ai dám nhặt.
Nhà vua đau khổ che mặt không cứu được.
Khi quay lại, thì thấy ngài nước mắt đẫm máu tuôn ra.
Bấy giờ bụi trần bay mù mịt, gió rít thê lương,
Đoàn quân theo con đường dốc quanh co lên ải Kiếm Các…)
Lúc này Thái tử Lý Hanh [Túc Tông] tập trung quân chống phản loạn tại Linh Vũ [Linh Vũ thị, Ninh Hạ]. An Lộc Sơn sai Trương Thông Nho giữ tây kinh Trường An; tháng 11 sai Ha Sử Na Thừa Khánh đánh chiếm Dĩnh Châu tại phía đông [Khai Phong thị, Hà Nam].
3. An Lộc Sơn bị con giết.
An Lộc Sơn thân thể phì mập, bị viêm da lâu năm; lúc bắt đầu làm phản thì mắt mờ, rồi trầm trọng hầu như mắt không thấy. Vào mồng một tết năm Chí Đức thứ 2 [757], An Lộc Sơn tiếp nhận triều bái của bầy tôi, vì thân thể bị đau nên nửa chừng phải bỏ dở. Do bệnh đau nên hay phiền giận; bất như ý là trách phạt nặng nề, ngay cả mưu chủ như Nghiêm Trang cũng bị đánh bằng gậy. Nghiêm Trang ôm hận, thông đồng với con Lộc Sơn là An Khánh Tự, cùng Hoạn quan Lý Trư Nhi; giết An Lộc Sơn. Chúng để cho An Khánh Tự đứng cửa ngoài, riêng Nghiêm Trang và Lý Trư Nhi mang đao vào phòng ngủ của An Lộc Sơn; Trư Nhi vung đao đâm vào bụng, Lộc Sơn mắt mù không vươn tay lấy được thanh bảo kiếm để trên đầu, chỉ kịp kêu lên:
“Tên này là giặc trong nhà ư!”
Kêu la xong rồi tắt thở. Thi hài An Lộc Sơn được bao bằng chăn lông thú, rồi đem chôn ngay dưới chân giường; mọi việc đều giấu kín. Nghiêm Trang lập tức tuyên cáo rằng An Lộc Sơn truyền ngôi cho An Khánh Tự, xưng là Thái thượng hoàng. An Khánh Tự đam mê tửu sắc, tôn xưng Nghiêm Trang bằng anh, việc bất kỳ lớn nhỏ đều xin ý kiến.
Sau này Sử Tư Minh giết An Khánh Tự, lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Yên, phong thuỵ hiệu cho An Lộc Sơn là Quang Liệt Hoàng đế.