ĐỀ 1: từ văn bản"chuyện người con gái Nam Xương" em hãy viết đoạn văn lập luận diễn dịch 12 câu để làm rõ nét đẹp truyền thống của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương.
ĐỀ 2:Trình bày vai trò của gia đình trong cuộc sống của mỗi người bằng một đoạn văn 12 câu theo phép lập luận qui nạp
ĐỀ 3: Từ lời nói của nhân vật Vũ Nương:"Thiếp sỡ dĩ...kia nữa" ,em hãy viết đoạn văn 12 câu trình bày suy nghĩ của mình về thân phận của người phụ nữa trong xã hội phong kiến . trong đó có sử dụng một câu cảm thán
ĐỀ 4: Từ nội dung đoạn trích " Chàn bèn theo lời...biến đi mất" và hiểu biết về tác phẩm . Em hãy viết một đoạn văn 12 câu nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Vũ Nương
Đề 1:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện "Chuyện người con gái Nam Xương" là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ ... làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, "cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết", mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được". Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: "Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: "Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!". Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá....
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: "Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ..." lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu "ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam" rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ "nam quyền", coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng "nam quyền", hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: "trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến..."
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du, người cung nữ trong "cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, ...
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
"Thắt nút" truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.
"Gỡ nút" cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: "cha Đản lại đến kia kìa") thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn "gỡ nút" truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương", Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là "ở hiền gặp lành", người tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
Truyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hội của thời đại mới.
Đề 4 :
Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Đề 2 :
Gia đình - hai từ nghe sao thân thương quen thuộc đến vậy. Gia đình là nơi chứng kiến mỗi con người lớn lên, trưởng thành, chập chững từ những bước đi đầu đời đến lúc lớn khôn rồi đến khi về già, đó là nơi tạo nên những người con ưu tú cho xã hội. Vì vậy, tình cảm gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng, ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với đời sống của mỗi cá nhân con người.
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một tổ chức cộng đồng nhỏ, có một nền thiết chế riêng và được hình thành trên quan hệ huyết thống giữa các thành viên trong gia đình. Tình cảm gia đình là tình yêu thương, gắn bó, quan tâm sâu sắc giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Nó là một chìa khóa đặc biệt của mỗi đời sống con người.
Trong mỗi gia đình, người cha, người mẹ luôn quan tâm chăm sóc cho con cái, họ nuôi dưỡng con cái từ khi lọt lòng, những bước đi đầu đời của con luôn có cha mẹ dìu dắt, nâng đỡ. Ông bà yêu thương, dành những tình cảm tốt nhất, những bài học hay cho con cháu. Con cháu thì "kính trên nhường dưới", chăm sóc phụ dưỡng ông bà, cha mẹ. Anh chị em chia sẻ niềm vui, giúp đỡ nhau khi khó khăn. Mỗi thành viên trong gia đình đều dành tình cảm cho nhau tạo ra những điều tốt đẹp nhất cho người thân của mình để tạo nên một gia đình văn hóa.
Tình cảm gia đình có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người. Gia đình là một tổ ấm luôn mang hạnh phúc sự bình an cho mọi cá nhân. Hạnh phúc đơn giản đầu tiên đó là được sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng trong tình cảm gia đình, được sống trong một xã hội nhiều điều tốt đẹp và thú vị. Gia đình đem lại một tình yêu thương bao la, là thứ tình cảm cho đi mà không mong nhận lại, một thứ tình cảm trong sáng và quý giá biết bao. Gia đình là một điểm tựa vững chắc cho mỗi con người tìm về khi đi trên con đường đời đầy khó khăn. Những lúc mệt mỏi, vấp ngã, phải chăng điều đầu tiên ta nghĩ đến đó là gia đình, những người thân, và họ luôn ở đó, tiếp sức, cổ vũ, động viên, cho ta thêm nhiều sức mạnh để bước tiếp. Họ không ngần ngại che chở, bao dung khi ta yếu đuối, buồn phiền. Hơn thế nữa, ta là con người như thế nào đều nhờ vào gia đình. Gia đình chính là gốc rễ hình thành nên tính cách con người. Gia đình chính là trường học thu nhỏ đầu tiên của mỗi cá nhân, ở đó con người được giáo dục uốn nắn từ khi còn bé, tính cách, tâm hồn đạo đức đều được bồi dưỡng chuẩn mực theo hướng tích cực. Tình cảm của các thành viên trong gia đình đã tạo nên một sức mạnh tiềm tàng ẩn sâu, nó có ý nghĩa rất lớn với đời sống của mỗi con người.
Nhưng, thật đáng buồn thay, có những gia đình lại là nơi gây ra những vết thương lòng lớn đối với con người. Đó là nạn bạo hành gia đình, chồng đánh vợ đã để lại những vết sẹo về mặt tinh thần cho con cái, người vợ. Ta có thể thấy rõ điều đó qua những nỗi đau của người vợ hay người con khi chứng kiến mẹ bị đánh đập, trong truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu, thấy bố đánh mẹ, "thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương" và nó tuyên bố "Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh". Rồi đến những người cha, người mẹ tàn nhẫn bỏ rơi con của mình, đối xử tệ bạc với cha mẹ, anh chị em trong nhà ganh đua chia rẽ vì phân chia tài sản với nhau. Nếu những đứa trẻ mà sống trong một gia đình không có tình cảm, chúng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực rất lớn cho cuộc sống sau này, chúng sẽ trở nên yếu đuối, lo sợ, tự ti, trầm cảm, thậm chí là thù hận và cuộc sống của chúng có trở nên tốt đẹp được? Vì vậy, ta càng phải nhận thức được rõ về tầm quan trọng của tình cảm gia đình. Để có một cuộc đời vui vẻ hạnh phúc, mỗi cá nhân cần phải có trách nhiệm xây dựng, giữ gìn tổ ấm của mình. Từ trẻ nhỏ đến người già trong gia đình hãy dành cho nhau tình cảm nhiều hơn, yêu thương, chở che đùm bọc lẫn nhau, bảo vệ một gia đình luôn bền vững.
Tình cảm gia đình một thứ mộc mạc đơn sơ, nhưng nó lại rất quý giá, nó mang một sức mạnh to lớn cho mỗi cá nhân. Nếu mỗi cá nhân mà được thừa hưởng tình cảm đấy thì sẽ tạo nên được một gia đình đầm ấm hạnh phúc, từ đó nó sẽ là nền tảng để xây dựng được một xã hội văn minh và bền vững