Mn xem bài cho mình ý kiến góp ý ạ!
Có thể bạn đã nghe qua về Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Và tôi chính là nhân vật Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam
Xương, Sinh ra trong gia đình có
hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy vẫn được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo từ nhỏ, hiểu được lễ ng...
Đọc tiếp
Mn xem bài cho mình ý kiến góp ý ạ!
Có thể bạn đã nghe qua về "Truyền kì mạn lục", một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Và tôi chính là nhân vật Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam
Xương, Sinh ra trong gia đình có
hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy vẫn được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp nên mọi người yêu quý mà gọi cho
cái tên Vũ Nương. Lại được ơn trời cho thêm tự dụng tốt đẹp. Đến tuổi mười tám, độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh cưới về làm vợ.
Về nhà chồng, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng rồi Chồng tôi đi lính loạt đầu vì tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên. trong buổi tiễn đưa tồi dặn dò, chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.
Thời gian đăm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé đặt tên là Đản, phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ sớm khoẻ song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi
Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ
đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương
chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ
không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng
mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con
là “cha Đàn lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ
nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa
cùng chiếc bóng.
Năm sau dẹp giặc, đất nước thái bình, việc quân sự. Chồng tôi may mắn bình an trở về như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa tuy nhiên khi nghe tin mẹ mất, chồng tôi rất buồn, anh đã hỏi mộ mẹ rồi dắt đứa con nhỏ đi thăm. Tôi không biết trên đường đã xảy ra chuyện gì, nhưng khi trở về, tâm trạng anh vô cùng tồi tệ, sau đó anh nặng lời với tôi, trách tôi hư hỏng, làm chuyện trái đạo lý… Tôi cũng không hiểu đến cùng. Biết nguyên nhân vì sao, thấy anh như vậy, anh chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Tôi bàng hoàng sửng sốt, vừa khóc thổn thức vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch.Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng. Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy tôi đến bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. May thay, Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và cho tôi lưu lại ở đó.
Một hôm gặp Phan Lang, một người dân làng trong lúc hoạn nạn đã được Linh Phi cứu giúp. Phan Lang kể cho tôi nghe sự việc. Chẳng là Trương sau khi thấy vợ chết, rất tức giận nhưng vẫn động lòng thương cho vợ đi tìm xác nhưng không thấy vô cùng ân hận.
Mấy hôm sau, thấy Trương Sinh bày hội chợ ba ngày ba đêm ở bến sông Trường Giang.
Tôi cũng thấy thương chồng con vì không có ai chăm sóc. Cho nên đến ngày
thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi
chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban
cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ
lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi
mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện
người chết sống lại, cũng một phần vì tôi
muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi,
đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi
liền trở về thủy cung, không một lần trở lại.
Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Tôi chỉ mong rằng qua câu chuyện cuộc đời tôi để mọi người lấy đó làm bài học để giữ lấy hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên nền tảng của tình yêu thương mà còn phải có sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.