Văn bản ngữ văn 8

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Đào Thị Ah Thư

Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước bằng những hiểu biết của 2 văn bản của trần quốc tuấn và nước đại việt ta em hãy làm sáng tỏ luận điểm trên

Thời Sênh
25 tháng 4 2019 lúc 10:50
MB:
-nhân dân ta đã trãi qua biết bao cuộc xâm lăng và chiến thắng kể thù bởi 1 lòng nồng nàn yêu nc
-tình yêu đó đã toả sáng trong tâm hồn ng dân đất việt tạo thành nièm tự hào dân tọc sâu sắc
-tác phẩm hịch tướng sĩ và nc đại việt ta đã cm đièu đó
TB:trần quốc tuấn và ng trãi,=tình yêu nc sâu sắc,họ đã để lại cho cho đời áng thiên cổ hùng văn,2 tác phảm bất hủ trong nền văn chương VN
-hịch tướng sĩ:lòng yêu nc ếy dc thét lên bởi lòng căm thù giặc sâu sắc
+nêu những tội ác của giặc=tất cả những suy nghĩ và nỗi niềm của mình(đi lại nghênh ngang ngoài đường,uốn lưỡi cú diều,sỉ mắng triều đình.....)->ngang ngược,trơ trẽn bỉ ổi
+qua đó tác giả bày tổ sự khinh bỉ và lòng căm jận kể thù 1 cáh sâu sắc(gọi kẻ thù là hổ đói
==>khi thấy tình cảnh lúc bấy jờ,có ai mà k đau?k nhục?
=>thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và lòng căm thù giặc kủa các tướng sĩ
+tác giả thể hiện nỗi lòng của mình(ta thường...vui lòng)nõi đau ấy dường như k thể kể hết,đau đến cắt da cắt thịt,đau đến lệ rơi và nỗi đau ấy trở thành ý chí quyết chiênd quyết thắng chống quân xâm lược,lếy lại tự do đọc lập cho dân tộc,cho nhân dân đất việt dẫu có hy sinh
==>sáng ngời niềm tự hào dân tọc,ng anh hùng dám hy sinh vì nghĩa lớn xem thường kái chết
-nc đại việt ta:lòng yêu nc thẻ hiện qua lòng tự hào tự tôn dân tộc
+nguyễn trãi nói rõ ràng tư tưởng nhân nghĩa:yên dân và trừ bạo
yên dân là mục đích cuối cùng nhưng muốn yên dân trc tiên phải trừ bạo,trừ khử những thế lực làm hại đến dân
->câu văn khẳng định rõ ràng,tràn đềy khí phách dân tộc
+khẳng định chủ quyền đọc lập dân tộc:đưa ra những yếu tố xác đáng:đất nc có quộc hiệu riêng,có phông tục tập quán riêng,có nền văn hiến lâu đời qua các triều đại,có nhân tài hoà kiệt(nêu dẫn chứng....)
->câu văn tràn ngập lòng tự hào,tự tôn dân tộc
+_bằng những dẫn chứng xác thực và limh hoạt,ng trãi 1 lần nữa khẳng định chủ quyền dân tộc:ông nói rõ kẻ nào xâm phạm chính nghĩa sẽ phải chuộc lếy thất bại đó là đièu hiẻn nhiên.k kẻ nào có thể chiến thắng dc sức mạnh kủa chân lí,của quốc gia dân tộc
*nghệ thuâti:2 tác phẩm vs sự kết giữa lí lẽ và dẫn chưáng thưc lế,giàu hình ảnh và cảm xúc diễn tả sâu sắc lòng yêu nc nồng nàn,tinh thần tự hào,tự tôn dân tộc
KB:
-2 bài văn dc viết lên bởi trái tim yêu nc sâu sắc tạo nen bảm hùng văn sáng ngời chính nghĩa
-nó sẽ mãi trường tồn theo thời gian và mãi ở trong lồng ng dân đát việt
Nguyen
25 tháng 4 2019 lúc 14:02
​Khi nhắc đến cảm hứng chủ đạo trong những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại từ thế kỉ XV thì ta không thể không nhắc đến cảm hứng yêu nước. Trải qua những trang sử dài lâu, vẻ vang, “tuy từng lúc mạnh yếu khác nhau”, nhưng vẫn luôn hiện hữu niềm tin tự hào trong mỗi người dân Việt Nam về những con người mang đậm “tình yêu nước, nghĩa thương dân”. Trong số đó, ta không thể không nhắc đến những vị anh hùng như Lý Công Uẩn trong “Chiếu dời đô”, Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” và Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta”.

Đọc ba áng văn chương kiệt tác này, ta mới cảm nhận được tấm lòng sâu sắc của những con người luôn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nước, cho dân. Đối với họ, nỗi niềm đất nước là nỗi niềm trăn trở, canh cánh không nguôi. Chính khát vọng độc lập và khí phách Đại Việt đã làm nên vẻ đẹp “thần hiếm” trong các vị vua, chủ tướng này.

Buổi đầu, mới giành được độc lập, đất nước ta còn chưa cường thịnh. Trong mấy chục năm mà đã thay đổi trị vì đến ba vương triều. Các triều đại Đinh, Tiền Lê số phận ngắn ngủi thực là đau xót! Có lẽ, sự suy vong của các triều đại như “tiếng chuông cảnh báo” cho giang sơn, bờ cõi Đại Việt. Làm thế nào để Đại Việt phát triển thành một quốc gia phồn thịnh? Đó là nguồn vọng của một vị hoàng đề và cũng là ý muốn của muôn dân trăm họ. Ý nguyện của dân chúng là đã thôi thúc hoàng đế Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư về Đại La.

Kinh đô là trung tâm chính trị, hành chính, là điểm tụ của quốc gia. Khi dời kinh đô đi nơi khác, người đứng đầu cuộc “hành trình” phải có những hiểu biết sâu rộng về địa hình, có cẻ sự nhạy bén và can đảm để đi đến quyết định cuối cùng. Qua đó, ta thấy rõ được tài năng “xuất chúng” của Lý Công Uẩn - vị vua anh minh và tài giỏi. Ông nắm giữ được tình hình, thời vận của đất nước, ông muốn mọi thứ dưới quyền hành của mình phải thực sự tốt đẹp - dân ấm no, nước hưng thịnh. Chính vì vậy, Người quyết định dời đo - một quyết định không có gì trái với luân lí, trái với quy luật tự nhiên cả. Muốn vậy, việc dời đô là phải tìm một nơi “trung tâm của đất trời”, địa thế “rồng cuộn hổ ngồi” - và ông đã chọn Đại La. “Đại La là nơi trung tâm của đất trời, mở ra bốn hướng Nam - Bắc, Đông - Tây; có núi lại có sông, đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoáng, tránh được nạn lụt lội, còn là kinh đô cũ của Cao Vương, muôn vật tốt tươi, xem khắt Đại Việt cỉ có nơi đây là thắng địa”. Nhìn sâu vào khát vọng của vị vua anh minh này, chúng ta mới thực sự cảm nhận được tình yêu mãnh liệt hằn ẩn trong con người ông. Lý Công Uẩn chính là một trong những con người bước lên và đã có công khiến cho “con thuyền “ Đại Việt băng băng lướt sóng trên con đường xấy dựng và phát triển đất nươc.

Nếu lòng yêu nước, thương dân của Lý Công Uẩn đã được bộc lộ trong “Chiếu dời đô” với nguyện vọng đất nước phồn thịnh muôn đời thì với Trần Quốc Tuấn - một vị chủ tướng tài ba đã chứng minh lòng yêu nước của mình qua lòng căm thù giặc sâu sắc và ý niệm sẵn sàng hi sinh vì đất nước qua tác phẩm “Hịch tướng sĩ”.

Là một chủ tướng có lòng yêu nước hào hùng, ông không thể “mặt lấp tai ngơ” trước những hành động bạo tàn của kẻ thù, ông căm thù chúng làm ông không tiếc những lời cay xé để lên án hành động như “nghênh ngang đi lại ngoài đường” như một đất nước không vua, “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” hay “vơ vét vàng bạc, ngọc lụa để vung đầy túi tham của chúng”. Từ lòng căm thì giặc, ta lại càng cảm thương cho vị chủ tướng khi quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến “tim gan thắt ruột”, “nước mắt đầu đìa” vì uất ức chưa trả được mối thù nợ nước. Từ đó, tấm lòng xả thân vì nước, nguyện hi sinh “trăm thân” cho quê hương làm nổi bật hẳn một vị anh hùng đáng cảm phục. Có lẽ vi thế, ông đã nghiêm khắc thức tỉnh các tướng sĩ đang sống trongc ảnh “xa hoa”, sung sướng. Ông muốn họ thực sự kiên quyết chống giặc đồng tthời cũng muốn đất nước, hưng thịnh đến muôn đời. Qua đó, ta mới hiểu rõ tấm lòng cao cả, anh minh, yêu nước, thương dẫn của cị tướng Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn.

Đối với “Chiếu dời đô” đã toát lên niềm tự hào cao độ về bản lĩnh, khí phách của Đại Việt, còn “Hịch tướng sĩ” lại khẳng định một nền độc lập - tự do bền vững. Còn đối với Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta” lại khác, lòng yêu nước, thương dân, khát vọng tự do đã được đúc kết thành chân lí ôm ấp trong trái tim người dân đất Việt.

Bài cáo của Nguyễn Trãi như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai mang ý nghĩa lịch sử của cả một đất nước, thể hiện ý thức tự chủ, quyền dân tộc. Tư tưởng nhân - nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho Giáo, được hiểu là “lòng thương người chính là việc cần làm”. “Yên dân” là làm cho dân được hưởng thái bình những muốn “yên dân” thì phải đi đôi với việc “trừ bạo”. Có bảo vệ được dân thì mới thực hiện được mục đích “yên dân”. Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của một đất nước, đồng thời khơi gợi cho chúng ta một niềm tự hào dân tộc cao cả. Chân lí của Nguyễn Trãi như sức mạnh trong tâm hồn yêu nước, thương dân có trong trái tim mãnh liệt của ông. Điều đó như tiềm thức khắc sâu trong tim mỗi độc giả chúng ta:

“... Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc - Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập
....
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch đằng giết tươi Ô Mã ...”

Ra đời trong hào khí chiến thắng, cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn, cả ba áng văn thiên cổ hùng văn đã khẳng định quyền và tính độc lập dân tộc. Đồng thời, thấy rõ những phẩm chất ằn hẩn chứa trong các vị vua, vị chủ tướng nghiêm khắc mà có trái tim nồng ấm.

Kết quả của sự lãnh đạo anh minh của các vị “tướng tài, vua giỏi” Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuần, Nguyễn Trãi là niềm tin vững chắc về một tương lai tốt đẹp của nhân dân ta từ xưa đến nay. Một lần nữa, khúc khải hoàn kia lại khẳng định cao hơn, chi tiết hơn tầm quan trọng cả họ vô cùng to lớn đến giang sơn đất nước. Những vị ấy đã cố gắng giữ gìn và gây dựng đất nước thì con cháu chúng ta lại càng phải cùng nhau gây dựng và bảo vệ đất nước vững mạnh hơn.