Câu 4: Phân tích và nêu cảm nhận của em về nỗi nhớ của Thúy Kiều (nhớ chàg Kim, nhớ cha mẹ) trog đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưg Bích”
Câu 5: Phân tích hình tượg ng anh hùg Quang Trung–Nguyễn Huệ trog “Hoàg Lê nhất thốg chí” của Ngô Gia văn phái
Câu 6: Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều trog đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Câu 6: Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam – danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” là kiệt tác số 1 của Nguyễn Du, kết tinh những thành tựu về nội dung và nghệ thuật. Trong “Truyện Kiều”, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du, mỗi nhân vật đều hiện lên một chân dung hết sức sinh động, gợi cảm. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều qua bút pháp ước lệ tượng trưng. Mở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu và gợi tả vẻ đẹp của hai chị em: Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Trong những câu thơ trên, vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều được xếp vào hàng tuyệt thế giai nhân, cả hai chị em đều là những “ả tố nga” tức là những cô gái đẹp.Bằng bút pháp ước lệ (lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người), ta thấy chị em Kiều đều có vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao như “mai”, có tâm hồn trong trắng như “ tuyết”. Cả hai chị em đều đẹp “ mười phân vẹn mười” nhưng mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng, không hề lẫn lộn. Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả ở 4 câu thơ tiếp theo. Câu mở đầu vừa giới thiệu vừa khái quát đặc điễm nhân vật: “Vân xem trang trọng khác vời”. Hai chữ “ trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quí phái của Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với những thứ cao đẹp trên đời: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Vẫn là bút pháp nghệ thuật ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân, ngòi bút của Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều. THứ nhất là cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Thứ hai là cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng miêu tả: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”. Mỗi phép so sánh, ẩn dụ đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ. Hình ảnh “khuôn trăng đầy đặn” gợi tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng. Hình ảnh “nét ngài nở nang” gợi tả đôi lông mày sắc nét, đậm như con ngài. Hình ảnh “hoa cười”, “ngọc thốt” góp phần gợi tả miệng cười của Thúy Vân tươi thắm như hoa,giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc. Hình ảnh “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” gợi tả mái tóc đen mượt mà, óng ả hơn mây; làn da trắng, mịn màng hơn tuyết. Như vậy, chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng suôn sẻ. Thúy Vân đã đẹp, Thúy Kiều còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Nếu như Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thúy Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy. Qua vẻ đẹp của Thúy Vân mà người đọc hình dung ra vẻ đẹp của Thúy Kiều. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thoe đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Náng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi ta vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ: Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. NGhề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái t im đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đễn nỗi mất thành mất nước. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho taoh hóa phải ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhều gian truân, đau khổ. Vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn của chị em Thúy Kiều được khẳng định ở 4 câu thơ cuối của đoạn trích: Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Chị em Thúy Kiều được sống trong cảnh “trướng rủ màn che”, chưa từng hò hẹn với một ai. Điều đó thể hiện phẩm hạnh cao đẹp của hai nàng thật đáng trân trọng, đáng ngợi ca. Tóm lại, đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả rất sinh động bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều. Băng bút pháp ước lệ, tượng trưng gợi tả tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao vẻ đẹp của con người, mang đậm cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca, thể hiện tính nhân văn cao cả.
Câu 4:
Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều. Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này vừa phù hợp quy luật tâm lý (những người trẻ tuổi bao giờ cũng nhớ người yêu trước), vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ Kim Trọng, nàng nhớ lời thề ước dưới trăng, thương chàng Kim Trọng đêm ngày đau đáu trông chờ uổng công vô ích.
Tiếp đó, Nàng nhớ đến cha mẹ. Nàng thương xót cha mẹ già yêu mà nàng không được chăm sóc. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao sâu" và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ. Cũng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ lại khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau.
Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Những suy nghĩ này cho thấy Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người phụ nữ có tấm lòng vị tha đáng trọng.
Câu 5: Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết theo lối chương hồi, viết về lịch sử. Khác với cách phản ánh của chính sử, là phản ánh một các khách quan nhất về các sự kiện cũng như các nhân vật lịch sử, thì trong tác phẩm này, các tác giả Ngô Gia Văn Phái đã vừa tái hiện lại lịch sử, vừa thể hiện được cách nhìn nhận, đánh giá của mình về những sự kiện, nhân vật ấy. Vì vậy mà “Hoàng Lê nhất thống chí”là tác phẩm văn học có giá trị cao về lịch sử, thông qua tác phẩm này, độc giả có thêm những hiểu biết về lịch sử cũng như những nhân vật làm nên lịch sử. Trong hệ thống hàng trăm các nhật của Hoàng Lê nhất thống chí, tác giả Ngô Gia Văn Phái đã làm nổi bật hẳn lên nhân vật người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ là một vị vua, một vị tướng tài giỏi của Việt Nam, ông không chỉ văn tài, võ lược mà còn mưu trí hơn người. Vị vua tài giỏi này đã làm lừng lẫy chính sử khi đã giành được chiến thắng hiển hách trước hai mươi chín vạn quân Thanh. Trong tác phẩm Hoàn Lê nhất thống chí, người anh hùng Nguyễn Huệ không chỉ hiện lên là người có tầm vóc về tư tưởng, trí tuệ, sức mạnh, mà còn là một con người như bao người bình thường khác, có hỉ, nộ, ái ố. Đây cũng chính là sự khác biệt, đặc sắc của tác phẩm này với các tác phẩm chính sử khác. HÌnh ảnh của người anh hùng Nguyễn Huệ hiện lên trước hết là một con người mạnh mẽ, quyết đoán. Ngay sau khi nghe tin hai mươi chín vạn quân Thanh ồ ạt kéo sang nước ta với mục đích xâm chiếm lãnh thổ thì Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi hoàng đế và lên kế hoạch, thân chinh cầm quân đánh giặc. Đây là con người có bản lĩnh phi thường vì trước hoàn cảnh vô cùng khẩn cấp của đất nước, nếu như những người khác e dè, lo lắng thì Nguyễn Huệ đã dứt khoát, mạnh mẽ hành động.
Nguyễn Huệ là người nói được làm được, vì ngay sau khi lên ngôi hoàng đế thì Nguyễn Huệ đã làm mọi công tác chuẩn bị cuộc kháng chiến sắp tới, từ “tế cáo trời đất”, “đốc suất đại binh”, tuyển mộ quân lính, rèn luyện tác chiến…Vì việc quân đã hết dức cấp bách, nên mọi hành động của Quang Trung đều được làm rất khẩn trương, nhanh chóng. Chỉ qua những hành động chuẩn bị ban đầu ta cũng phần nào nhận thấy được tài năng xuất chúng của vị vua giỏi tài thao lược này. Vì nếu như những vị vua khác chỉ giữ vai trò chỉ đạo, còn mọi việc quân giao cho những người tướng quân tài giỏi toàn quyền chỉ huy. Thì ở đây, Nguyễn Huệ là một vị vua nhưng cũng đồng thời là một người tướng quân, ông không màng đến những hiểm nguy mà tự mình thân chinh đánh giặc.
HÌnh ảnh của người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ hiện lên là một vị minh quân sáng suốt. Vì khi đã lên ngôi vua, quyền lực nắm trong tay nhưng ông không hề độc đoán, chỉ làm theo ý mình mà ông còn trọng dụng và hỏi ý kiến của người hiền tài, mà ở đây chính là La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, đây là bậc kì tài, vì vậy mà trước khi hành quân ra bắc, Nguyễn Huệ đã mời Nguyễn Thiếp vào cung để hỏi những việc liên quan đến việc nước. Chính sự coi trọng, đề cao những người hiền tài này thể hiện được cái sáng của bậc minh quân, đây cũng là lí do vì sao các tác giả Ngô Gia Văn Phái rất kính trọng Nguyễn Huệ, mặc dù các tác giả theo nhà Lê.
Nguyễn Huệ là một con người tài ba, lỗi lạc. Sự tài ba này trước hết thể hiện ở lời kêu gọi các binh lính “Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc của nước ta, giết hại dân ta. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam làm quận huyện….Lần này ta thân hành cầm quân, phương lược tiên đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được quân Thanh…” những lời kêu gọi quân lính nhưng đồng thời cũng là những lời động viên, đốc thúc, tạo cho quân lính có niềm tin, có động lực vào cuộc chiến trước mắt. Không chỉ kêu gọi, chiêu binh mà Nguyễn Huệ còn tổ chức, lên kế hoạch đầy đủ, chia đại quân ra làm các cánh, phân chia người chỉ huy. Đây chính là chiến lược sáng suốt thể hiện được mưu trí của người chủ tướng.
Không chỉ vậy, việc ấn tượng nhất trong cuộc chiến chống quân Thanh này chính là cuộc hành quân thần tốc từ Tam Điệp đến Hoàng Thành Thăng Long, quá trình hành quân này sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như nó không nhanh đến bất ngờ như thế khi ngày ba mươi tháng chạp đội quân còn ở Tam Điệp thì đến ngày mùng năm tháng một đã có mặt ở Hoàng thành Thăng Long, sự thần tốc này ngoài đại quân của Nguyễn Huệ thì trong lịch sử cũng chưa từng có ai làm được. Trong trận đánh trực tiếp với quân Thanh, Nguyễn Huệ đã cho chuẩn bị những chiếc khiên, rồi sau đó quấn rơm ướt bên ngoài, đây chính là vũ khí chống lại hỏa lực của địch.
“Hoàng Lê nhất thống chí” tuy xuất hiện rất nhiều nhân vật nhưng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ chính là một trong những nhân vật chính mà các tác giả Ngô Gia Văn Phái kì công miêu tả, tái hiện nhất. Điều đáng nói nhất ở đây, chính là các tác giả Ngô gia là theo triều đình nhà Lê nhưng vẫn viết một cách khách quan, chân thực về Nguyễn Huệ như vậy, có thể nói các tác giả đã đặt sự thật lịch sử lên trên những quan điểm cá nhân. Đây cũng là một yếu tố làm nên sự thành công cho “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Câu 5: Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kì mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ – vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên gò Đống Đa lịch sử bất tử.
Đọc Hồi thứ 14 Hoàng Lê nhất thống chí, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.
Những tác giả – người con ưu tú của dòng họ “Ngô Thì" ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với thái hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ “hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.
“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Ván Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét”.
Nên biết lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: “E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?”. Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.
Nguyễn Huệ là một con người “biết nghe và quyết đoán”. Ngày 24 tháng chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ “giận lắm” định “cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn “hay chính vị hiệu", ông đã nghe theo để “giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế trời đất, thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An: gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân “đồng tâm hiệp lực, để đựng nên công lớn”, nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ “ăn ở hai lòng… sẽ bị giết ngay tức khắc", (vạch trần thói tàn bạo tham tàn của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ… để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi….).
Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân tới Tam Điệp hội sư với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn Tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành 5 đạo binh lớn “gióng trống lên đường ra Bắc".
Nguyễn Huệ thật “lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân”: Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người". Trong khi đó, một trận “rồng lửa” đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên", làm cho Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp… nhắm hướng bắc mà chạy". Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào thành Thăng Long trước kế hoạch 2 ngày.
Nhãn quan quân sự – chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm “người khéo lời lẽ" để “dẹp nổi việc binh đao”, đem lại “phúc cho dân”.
Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
(Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa)
Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn Hoàng Lê nhất thống chí thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Câu 5: Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho lũ bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc", gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn" nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu dược sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: Nguyễn Huệ là một tay anh hung lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…". Trong khi nói những lời ấy, chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là "giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo "chính thống”, phần nào bị quan điểm "chính thống" chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác. Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ: Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa? … Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém "Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí” hết súc khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cử Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", "bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng" … Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ: "Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt". Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ” để “dẹp việc binh dao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: ''Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cử ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. Đó là cái giỏi, cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong hồi mười bốn “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó, người đọc có thể hình dung được chân dung của nguời anh hùng áo vải. Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần" mà còn là một vị tướng giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.
Câu 5: Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn học viết theo lối chương hồi,mang đậm giá trị lịch sử. Phản ánh được một cách chân thực và sống động tình hình xã hội đầy biến động ở Việt Nam ba mươi năm cuối thế kỉ mười tám, và mấy năm đầu thế kỉ mười chín.
Trong tác phẩm này,các tác giả nhà Ngô gia văn phái đã đặc biệt xây dựng kết cấu tác phẩm và xây dựng rõ nét chân dung nhân vật lịch sử, điển hình trong số đó chính là người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ.
Trong hồi mười bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí,các tác giả Ngô gia văn phái đã khắc họa hình ảnh Nguyễn Huệ – Người anh hùng dân tộc mưu lược toàn tài, trí tuệ hơn người cùng tài cầm quân xuất chúng.
Người anh hung Nguyễn Huệ được xây dựng trong tác phẩm là một người kiêu hùng, quyết đoán với những hành động mạnh mẽ, dứt khoát.
Khi được tin quân Thanh kéo sang, chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “ tế cáo trời đất”,lên ngôi hoàng đế. Sau đó lập tức thân chinh kêu gọi binh lính, đốc thúc đại quân, cả thủy lẫn bộ kéo ra Bắc đánh dẹp quân Thanh. Qua hành động này ta có thể thấy Nguyễn Huệ là một người vô cùng quyết đoán, đặc biệt đối với những vấn đề liên quan đến vận nước thì không hề chần trừ, do dự mà thân chinh cầm quân đi đánh giặc.
Trước khi mang quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã cho gọi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp vào để bàn bạc cơ mưu. Điều này cho thấy Nguyễn Huệ tuy dũng mãnh, trí tuệ hơn người nhưng không độc đoán mà rất coi trọng ý kiến của những bậc hiền tài, biết chiêu mộ ý kiến của hiền thần. Quả thực, Nguyễn Huệ là một bậc minh quân tài năng sáng suốt.
Biết được số lượng binh lính mà quân địch kéo sang Thăng Long là rất lớn- hai mươi chín vạn quân, cũng xét thấy tương quan lực lực giữa ta và địch có sự chênh lệch, Nguyễn Huệ đã dốc sức chiêu mộ binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Đồng thời cũng phân chia quân thành bốn doanh: tiền, hậu,tả hữu; lên kế hoạch tiến công đánh giặc.
Như vậy,Nguyễn Huệ là một vị chủ tướng đầy mưu lược, không chỉ nâng cao sức mạnh cho quân mình mà còn bố trí, đề ra những kế hoạch cụ thể, chu toàn. Đây là tiền đề cho những thắng lợi vang dội sau này.
Nguyễn Huệ là người có trí tuệ sáng suốt, biết “ đánh” vào lòng quân để nâng cao nhuệ khí, tinh thần chiến đấu.
Ông đã phân tích cặn kẽ tình hình quân quân giặc ở thành Thăng Long, nêu cao truyền thống đánh giặc bất khuất của dân ta từ thời hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lí Thái Tổ…Từ đó ông làm tiền đề để đưa ra lời kêu gọi toàn quân: “Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.”
Những lập luận sắc bén, chặt chẽ, thấu tình đạt lí của Nguyễn Huệ đã khơi dậy được nhuệ khí chiến đấu, lòng tự tôn của toàn quân, phát huy được sức mạnh tinh thần to lớn cho cuộc chiến sắp tới.
Là một người chủ tướng, Nguyễn Huệ cũng đề cao kỉ luật, những quy định chặt chẽ với nghĩa quân, xử phạt nghiêm khắc với những ai ăn ở hai lòng, phản bội đất nước, dân tộc “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước”
Sự đa mưu túc trí của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở tài dùng người,cầm quân, vạch ra những chiến lược, chiến thuật đánh giặc độc đáo , hợp lí.
Đội quân của Nguyễn Huệ có cuộc hành quân thần tốc do người chủ tướng đề ra chiến lược cho quân lính thay phiên nhau, cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc.
Cách chống lại vũ khí của giặc cũng vô cùng độc đáo bằng cách dùng khiên có bao phủ rơm ướt bên ngoài, với chiến lược này hỏa tiễn của quân địch không thể phát huy được tác dụng.
Nguyễn Huệ còn thực hiện chiến thuật nghi binh, cho quân mở cờ gióng trống ở phía Đông, quân địch khi rút chạy đã vô cùng hoảng sợ, rày xéo lên nhau mà chạy về nước.
Như vậy,hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ được các tác giả Ngô Gia văn phái khắc họa một cách sống động,chân thực hình tượng của một người anh hùng trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Điều đáng nói ở đây là các tác giả Ngô gia thuộc nhà Lê mà viết về Quang Trung trên tinh thần ngợi ca như vậy, tức là đứng trên lập trường dân tộc để phản ánh. Điều đó càng làm cho tác phẩm mang nhiều giá trị hơn.
Câu 5: Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung ( Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí , tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: từ đàu đến cuối đoạn trích , Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”.
Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “ tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “ đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của đân tộc.
Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử tri với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,…
Cùng với ý trí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa dành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân( Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế…
Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tinhfcuar vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù ( bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung ( khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hinh ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Câu 5: – Quang Trung là một vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt.
+ Sáng suốt trong việc lên ngôi vua: Trong tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi hoàng đế rồi lập tức lên đường ra Bắc tiêu diệt quân Thanh và lũ bán nước.
+ Sáng suốt trong việc nhận định tình hình ta và địch: Trong lời dụ quân sĩ trước khi lên đường Quang Trung đã nói: “Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta… Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam làm quận huyện… Lần này ta thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạn, thì ta có sợ gì chúng”.
+ Sáng suốt trong việc xét đoán bề mình: “Các ngươi đã biết nhín nhịn để tránh mũi nhọn của chún, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy rất là đúng”.
+ Sáng suốt trong tầm nhìn xa. Giặc còn đang ở Thăng Long, Bắc Hà còn nằm trong tay kẻ thù vậy mà Quang Trung đã tín: “Chẳng qua mươi ngày nữa ta sẽ đuổi được người Thanh”. Đối với Quang Trung, việc đuổi giặc ngoại xâm không khó nhưng cái khó là “dẹp yên việc binh đao” sau chiến tranh. Ông giao cho Ngô Thì Nhậm.
– Quang Trung là một vị tướng có tài thao lược hơn người:
Chớp thời cơ, tổ chức một chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử.
+ Khẩn trương lên đường, tuyển quân trên đường đi, tổ chức hành quân thần tốc. Ta sẽ không thể hiểu thế nào là thần tốc nếu không theo dõi cuộc hành quân từ Tam Điệp ra Thăng Long. Đêm 30 tháng chạp còn ở Tam Tiệp vậy mà trưa ngày mùng 5 tháng 1 quân Quang Trung đã ở giữa kinh thành Thăng Long. Đoạn đường dài hơn 100 cây số, phải vượt qua nhiều con sông, tấn công nhiều đồn địch. Đi bằng ấy đường đất, làm bằng ấy công việc, không phải Quang Trung thì không ai làm được.
+ Chọn tướng chỉ huy, chia quân, bố trí phối hợp giữa các cánh quân.
+ Tổ chức cách đánh của mũi quân xung yếu do chính ông chỉ huy một cách kỳ tài. Ông cho dùng những tấm gỗ bện rơm bên ngoài, cứ mười người khiêng một bức “lưng dắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn trận chữ nhất là tiến, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc”.
– Quang Trung là một vĩ lãnh tụ có khí phách lẫm liệt.
+ Trong lịch sử phong kiến Việt Nam có nhiều vị vua thân chinh cầm quân đánh giặc, song nắm toàm quyền chỉ huy, đốc thúc chiến dịch, đương đầu với hòn tên mũi đạn thì chỉ có Quang Trung. Hình ảnh của Quang Trung hiện lên trong chiến trận ở đồi Ngọc Hồi vào sáng sơm ngày mung 5 mới lẫm liệt, hào hùng làm sao!
+ Chỉ huy một chiến dịch vĩ đại như vậy mà ôn vẫn ung dung tỉnh táo, lời nói sang sảng. Hình ảnh Quang Trung cưỡi voi “Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành…” là một hình ảnh tuyệt đẹp.
Câu 5: “Nước của chúng ta
Nước của những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rầm rì trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.”
Quả thật dân tộc ta là 1 dân tộc anh hùng chưa bào giờ bị khuất phục trước giặc ngoại xâm.Minh chứng mở lại những trang vàng của dân tộc ta thấy biết bao anh hùng hi sinh thân mình chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Một trong những vị anh hùng của dân tộc đó chính là Nguyễn Huệ-người anh hùng áo vải đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí “ của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái đã phản anh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ.Đến với tác phẩm để cùng tự hào về 1 giai đoạn lịch sử đầy hiểm hách của dân tộc.
Trước hết chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua khi tâu với bà Hoàng Thái Hậu . Mặc dù vẫn xem Nguyện Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn” nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ.Đoạn trích hồi thứ 14 đã miêu tả khá rõ tài năng phi thường của vua Quang Trung và bộ mặt đê hèn nhục nhã của bọn bán nước và cướp nước. Bằng những chi tiết hết sức sống động chân thực. Kết hợp với việc đứng trên lập trường chình nghĩa đoạn trích đạ làm sống lại hình ảnh vị vua tài năng cả về đạo đức lẫn quân đội.
Trước tiên ta thấy rằng mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.Khi được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long Nguyễn Huệ giận lắm , định cầm quân đi ngay.Nhưng ông đã nghe lời khuyên của mọi người: cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi rồi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Lễ xong mới hạ lện xuất quân.Hành động đó đã tạo được niềm tin uy tín đối với nhân dân đồng thời dễ thu phục binh lính tạo nên 1 thói vững chắc trong lực lượng của nghĩa quân . Biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác là bước đầu của sự thành công.
Việc Nguyễn Huệ tự mình dốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm tết Nguyên Đán cũng chứng tỏ tàu năng quân sự của ông.Đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là mất cảnh giác. Và ông còn rất hiểu sức mạnh tinh thần đối với quân sĩ : trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm cho tướng sĩ:”…Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các người đã biết chưa?…Người phương Bắc không phải nòi bũng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyễn có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuần lòng người, đấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…”Từ những lời động viên trên ta thấy Quang Trung quả là 1 vị vua không chỉ giỏi võ nghệ mà còn là vị tướng rất giỏi tâm lí. Ông đã khơi gợi được lòng căm thù giặc và tự hào về trang sử vàng của dân tộc để khích lệ binh sĩ.
Nguyễn Huệ còn dự đoán chình xác những sự việc sắp xảu ra.Ông là một người đầy tự tin :”Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược chiến tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”.Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ:”Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù.Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”.Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ để dẹp việc binh đao-đó cũng chính là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn người dân phải chịu cảnh binh đao sương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách đánh tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất” Vua truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”.Quang Trung là vị vua rất thông minh tiên đoán chính xác và còn là 1 người hết lòng yêu thương dân tránh những hậu quả cho nhân dân, binh lính.
Ông còn là người có tài điều binh khiển tướng, ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu để gọi loa vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh “rụng rời sợ hãi” phải đầu hành. Vua Quang Trung cỡi voi dốc chiến. Sáng mồng năm dồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt.Sâm Nghi Đống phải thất cổ tự tử hàng ngàn giặc bị giết “thây chất đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực.Tôn Sĩ Nghị”sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp…nhắm hướng Bắc mà chạy. Quân tướng “hoảng hồn, tan tác bỏ chạy”.Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng năm tháng giệng năm Kỉ Dậu. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc sáng mãi ngàn thu. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã góp vào một trang sử Vàng của dân tộc một chiến công vẻ vang hiếm hách.
Bằng lối văn biền ngẫu kết hợp với những chi tiết hết sức chân thật sống động với quan niệm đứng trên lập trường chính nghĩa.Hồi 14 đã thuật lại việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh người đọc đã hình dung chân dung người áo vải:Quang Trung- Nguyễn Huệ. Ông không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là một vị vua giàu lòng yêu nước.
“Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình”
