* Từ ghép : Là những từ phức được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa.
* Có 2 loại từ ghép :
- Từ ghép chính phụ : là loại từ ghép có tiếng chính và tiếng phụ , tiếng phụ bổ sung ý nghĩa cho tiếng chính , tiếng chính đứng trước , tiếng phụ đứng sau.
- Từ ghép đẳng lập : là từ ghép có các tiếng bình đẳng nhau về mặt ngữ pháp , không phân ra tiếng chính , tiếng phụ.
* Từ láy : là kiểu từ phức đặc biệt , có sự hòa phối âm thanh , có tác dụng tạo nghĩa giữa các tiếng. Phần lớn các từ láy trong tiếng Việt được tạo ra bằng cách láy tiếng gốc có nghĩa.
* Có 2 loại từ láy :
- Từ láy toàn bộ : các tiếng trong từ láy giống nhau hoàn toàn , giữ nguyên thanh điệu nhưng cũng có những từ biến đổi về thanh điệu và phụ âm cuối.
- Từ láy bộ phận : các tiếng trong từ láy giống nhau về vần hoặc phụ âm đầu
* Đại từ : là những từ dùng để trỏ người , sự vật , hoạt động , tính chất ... được nói đến trong 1 ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi.
* Có 2 loại đại từ :
- Đại từ để hỏi :
+ Hỏi về người , sự vật
+ Hỏi về số lượng
+ Hỏi về hoạt động , tính chất.
- Đại từ để trỏ :
+ Trỏ về người , sự vật
+ Trỏ về số lượng
+ Trỏ về hoạt động , tính chất.
Từ Hán Việt : là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng ký tự Latinh.
Từ láy (TL) từ được tạo nên bởi các tiếng giống nhau về âm, về vần hoặc cả âm và vần. Trong những tiếng cấu thành nên từ láy có thể có 1 tiếng có nghĩa hoặc tất cả các tiếng đều không có nghĩa.
Trong tiếng Việt, TL được chia thành 2 loại chính đó là: TL toàn bộ và TL bộ phận
TL toàn bộ là những từ có tiếng lặp lại hoàn toàn cả âm và vần. Có một số trường hợp đặc biệt thì 2 tiếng chỉ khác nhau về thanh điệu hoặc phụ âm cuối ví dụ: TL bộ phận là những từ có tiếng lặp lại về phần âm (người ta thường gọi là TL âm) hoặc lặp lại phần vần (người ta gọi là từ láy vần)
Từ Hán-Việt là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng ký tự Latinh.