1.Tên:
- Toàn quốc kháng chiến(19/12/1946-tháng 3/1947)
- Chiến dịch Việt Bắc thu đông (7/11/1947-19/12/1947)
-Chiến dịch Quảng Nam-Đà Nẵng (12/1/1949-30-3-1949)
2.Sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, quân ta liên tiếp mở những chiến dịch tiến công vào phòng tuyến của địch ở chiến trường vùng rừng núi, trung du và
đồng bằng, nhằm phá âm mưu đẩy mạnh chiến tranh của Pháp - Mĩ, giữ vững quyền chủ động đánh địch.
Trên chiến trường trung du và đồng bằng, trong đông - xuân 1950 - 1951, quân ta mở ba chiến dịch : chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo) đánh địch ở Vĩnh Yên, Phúc Yên ; chiến dịch Đường số 18 (Hoàng Hoa Thám) đánh địch trên Đuờng số 18 từ Phả Lại đi Uông Bí; chiến dịch Hà - Nam - Ninh (Quang Trung) đánh địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Trong ba chiến dịch, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 vạn tên địch, tiêu diệt nhiều cứ điểm quan trọng của chúng.
Sau khi rút kinh nghiệm ba chiến dịch mở ra ở vùng trung du và đồng bằng - là những chiến trường có lợi cho địch, ta chủ trương chỉ mở các chiến dịch tiến công tiếp sau ở vùng rừng núi - là chiến trường có lợi cho ta.Từ ngày 9 đến ngày 14 -11 - 1951, Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh, cơ giới, máy bay phối hợp đánh chiếm Hòa Bình, nhằm giành lại quyền chủ động đã mất trên chiến trường Bắc Bộ, nối lại “Hành lang Đông - Tây”, chia cắt căn cứ địa Việt Bắc với Liên khu III và Liên khu IV.
Ngày 10-11, Pháp cho quân nhảy dù xuống Xuân Mai, Chợ Bến (Hoà Bình), hai cánh quân thủy và bộ có máy bay yểm trợ, theo sông Đà và Đường số 6 tiến vào thị xã Hoà Bình.
Thực dân Pháp tập trung lực lượng đành Hòa Bình, nên chúng phải rút bớt quân ở đồng bằng, đó là cơ hội tốt đế ta đánh địch. Ta vừa cho quân bao vây, truy kích tiêu diệt địch trên mặt trận Hoà Bình, vừa đẩy mạnh hoạt động chống phá kế hoạch bình định đồng bằng Bắc Bộ của chúng, thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, buộc chúng phải rút khỏi Hoà Bình, kết thúc chiến dịch vào ngày 23 - 2 - 1952.
Tiếp tục thực hiện phương châm “đánh chắc thắng” và phương hướng chiến lược “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, bộ đội ta chuyển hướng tiến công địch trên chiến trường rừng núi, mở chiến dịch đánh địch ở Tây Bắc, nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đất đai và nhân dân, mở rộng dân cư địa kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích. Mở đầu chiến dịch, ngày 14 - 10 - 1952 quân ta tiến công địch ở Nghĩa Lộ; tiếp đó đánh vào Lai Châu, Sơn La và Yên Bái.
Sau hơn hai tháng chiến đấu (từ giữa tháng 10 đến cuối tháng 12 - 1952), ta giải phóng toàn tỉnh Nghĩa Lộ, hầu hết tỉnh Sơn La (trừ Na Sàn), bốn huyện thuộc Lai Châu, hai huyện thuộc Yên Bái, với 25 vạn dân, phá âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của địch.
Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Ít-xa-la của Lào thỏa thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đất đai và nhân dân, mở rộng căn cứ du kích, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Ngày 8 - 4 - 1953, chiến dịch bắt đầu.
Sau gần 1 tháng chiến đấu, Liên quân Việt - Lào giải phóng toàn tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa-lì với 30 vạn dân. Căn cứ kháng chiến ở Thượng Lào được mở rộng, nối liền với Tây Bắc Việt Nam, tạo thế mới để uy hiếp địch.
2.Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954) quân và dân ta đã giành nhiều thắng lợi to lớn để đi đến đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Trong những chiến thắng ấy, chiến thắng quân sự đưa quân ta giành thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ là chiến thắng Biên giới thu đông 1950.
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của ta ngày càng phát triển và gặp nhiều thuận lợi mới: Tháng 10/1949, CM Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời. Ngày 18/1/1950, chính phủ CHND Trung Hoa, đến 30/1/1950 chính phủ LX và 1 tháng sau là các nước trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm chiến tranh, thực dân Pháp đã không thể thực hiện được các ý đồ xâm lược mà còn buộc phải chuyển sang đánh lâu dài. Điều đó đẩy thực dân Pháp vào hoàn cảnh khó khăn. Pháp đã buộc phải xin viện trợ của Mĩ để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến. Ngày 13/5/1949, với sự đồng ý của Mĩ, Pháp đề ra kế hoạch Rơve tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông Tây”. Trên cơ sở đó Pháp âm mưu tấn công lên Việt Bắc lần thứ 2 để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Trước âm mưu mới của Pháp- Mĩ, tháng 6/1950, Đảng và Chính Phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt 1 bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông đườngbiên giới Việt trung, mở rộng củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 16/9/1950, chiến dịch bắt đầu, quân ta tấn công Đông Khê, uy hiếp Thất Khê, cô lập Cao Bằng . Đến 22/10/1950 quân địch đã phải rút cạy khỏi hàng loạt các cứ điểm dọc tuyến biên giới từ Cao bằng đến Lạng Sơn (Thất Khê, Na Sầm, Lộc Bình, Đình lập, An Châu), đường số 4 được giải phóng. Kết quả, sau hơn 1 tháng chiến đấu. ta loại 8000 địch, giải phóng 750 km đường biên giới Việt –Trung với 35 vạn dân, chọc thủng hành lang Đông-Tây,làm phá sản kế hoạch Rơve của Pháp, Mĩ.Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 đã khai thông con đường liên lạc của ta với các nước XHCN, quân đội ta giành thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.