Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam (từ năm 1911 đến 1941), Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và Trung Đông “để về giúp đồng bào mình”, một việc mà không lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ XX. Năm nay tròn 100 năm kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, đọc lại những vần thơ viết về hành trình tìm đường cứu nước của Người, mỗi người dân Việt Nam lại rưng rưng nước mắt vì nỗi kính phục, nhớ thương…
Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã trở thành huyền thoại khắc sâu trong tâm trí của những người dân Việt Nam. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đề cập đến con đường lịch sử ấy, nhưng thành công hơn cả chính là bài thơ Người đi tìm hình của nước của nhà thơ Chế Lan Viên.
Đất nước đẹp vô cùng, nhưng Bác phải ra đi… Mỗi lần đọc những dòng thơ ấy, trước mắt ta như thấy giây phút thiêng liêng: người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành xuống con tàu Đô đốc Latouche-Trévil ra đi tìm đường cứu nước ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng (TP. Hồ Chí Minh). Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm nhận sâu sắc nỗi lòng của Người trong những ngày lênh đênh trên đại dương bao la. Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ?/Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!/Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở/Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương. Người ra đi nhưng lòng vẫn mang nặng tình đất nước, vẫn canh cánh trong lòng vì vận mệnh dân tộc. Nỗi nhớ nước, nhớ quê nhà pha lẫn nỗi đau thương da diết vì mất nước đã thấm sâu vào lòng người xa xứ. Sóng nước nơi nào cũng là sóng nước. Nhưng trái tim có lý lẽ riêng: đã không phải nước trời quê hương thì tất cả đều xa lạ: Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương? Với những câu thơ giàu cảm xúc ấy, tưởng như có thể thấy hình ảnh của Người trằn trọc không ngủ với nỗi nhớ quê hương trong những đêm dài lênh đênh nơi xứ lạ. Tàu càng đi xa, tiếng sóng càng trở nên xa lạ, nỗi đau như tăng dần lên. Trong cuộc hành trình của mình, Người đã trải qua nhiều công việc cực nhọc như làm bồi bàn, lao công quét tuyết, phụ bếp cho khách sạn… Vất vả là vậy nhưng Người chưa bao giờ thôi nghĩ đến vận mệnh của đất nước: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa. Mỗi lần đọc câu thơ giàu hình ảnh ấy, người đọc lại rưng rưng nước mắt vì cảm phục tấm lòng yêu nước của Bác. Đang sống giữa châu Âu tuyết trắng, giữa những hàng cây trơ trụi lá vàng xứ lạnh, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Bác, trong tiềm thức của Bác, làng quê Việt Nam với bốn mùa xanh tươi vẫn hiện về đêm đêm. Người ăn không ngon, ngủ không yên mỗi khi nghĩ về Tổ quốc đang chịu nhiều thương đau. Trái tim giàu lòng yêu nước của Người cùng đau với nỗi đau của dân tộc trong cảnh nước mất, nhà tan.
Hành trình của Bác Hồ là hành trình của một con người lớn lao đang “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”. Có lẽ không một nhà thơ nào có thể viết hay hơn Chế Lan Viên về vai trò, ý nghĩa quan trọng của hành trình “đi tìm hình của nước” của Người: Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất/Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai/Thế đi đứng của toàn dân tộc/Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người. Người đã trải qua “năm châu bốn bể” với nhiều nỗi gian truân vất vả. Người đã “đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi”, đi khắp “những trời tự do, những trời nô lệ”, “những con đường cách mạng đang tìm đi”… với mong ước tìm con đường cứu nước.
Sự thành bại của hành trình đi tìm đường cứu nước của Người liên quan đến vận mệnh của toàn dân tộc. Khi đọc được Luận cương của Lê-nin, ngồi trong căn nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17, ngoại ô Paris, Người đã phát khóc và reo lên như đang nói với đồng bào của mình: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Nhà thơ Chế Lan Viên đã có những “thước phim cận cảnh” đặc tả niềm hạnh phúc vô bờ của Bác khi bắt gặp được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng là tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức, nô lệ: Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc/Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin/Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp/Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin/Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc/“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”/Hình của Đảng lồng trong hình của Nước/Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười. Với những câu thơ giàu hình ảnh, nhịp thơ gấp gáp, người đọc cảm nhận được niềm hạnh phúc của Người khi tiếp nhận Luận cương Lê-nin, một giờ phút trọng đại không chỉ đối với cá nhân Người mà còn với cả số phận một dân tộc. Giờ phút ấy thật thiêng liêng và chứa đựng trong đó cái huyền bí của sự hóa thân sinh nở của đất nước.
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước/Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười, dường như trong câu thơ đầy tính gợi hình ấy không chỉ có tiếng khóc của Bác Hồ vì nỗi vui mừng đã tìm được đường cứu nước, mà còn có tiếng khóc chào đời của một đất nước mới. Chẳng phải ngay khi ấy, trong tâm trí của Người đã tượng hình một đất nước Việt Nam mới với những dáng nét đầu tiên: Bác thấy: Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt/Ruộng theo trâu về lại với người cày/Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc…/Không còn người bỏ xác bên đường ray/ Giặc đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát/Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân/Những kẻ quê mùa đã thành trí thức/Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng.
Tìm được đường cứu nước, nhưng con đường cách mạng của Người còn nhiều chông gai, gian khổ. Và phải đến năm 1941, tròn 30 năm từ ngày ra đi tìm đường cứu nước, Người mới được trở về Tổ quốc thân yêu. Luận cương của Lê-nin theo Người về quê Việt/Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi/Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai. Bước chân đầu tiên về đất mẹ cũng là giây phút Người lắng nghe sự sống của sinh thể đất nước đang phôi thai trong lòng mình. Người về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cả thiên nhiên đất trời như reo vui: Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt/Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/Bác về… im lặng. Con chim hót/Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ (trích Theo chân Bác của Tố Hữu). Và hơn 4 năm sau đó, nước Việt Nam độc lập đã ra đời với câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Vào tìm câu hỏi tương tự. NẾU CÓ THÌ TICK CHO MK CÒN KO THÌ BÌNH LUẬN ĐỂ MK LÀM CHO.
Chúc bạn học tốt
Khi nói đến những anh hùng cách mạng, những người đã hy sinh, cống hiến tuổi thanh xuân và cả cuộc đời cho hòa bình, cho độc lập, tự do của Tổ quốc thì người đầu tiên phải nhắc đến là Bác. Bác là một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Bác chính là người đã khai sáng con đường độc lập, tự do của nước nhà và cũng chính là người tạo nên hình hài nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hôm nay.
Ngày 05/06/1911, chuyến ra đi mang theo bao hoài bão và khát vọng lớn lao của một thanh niên 21 tuổi đã trở thành chuyến đi huyền thoại và là cột mốc quan trọng thay đổi vận mệnh nước nhà. Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành bước lên con tàu với hai bàn tay trắng, với trái tim mang nặng nỗi đau mất nước, với quyết tâm cháy bỏng: khôi phục lại nước Việt, mang hòa bình, độc lập về cho Tổ quốc và mang tự do về với mọi người dân. Chàng trai ấy đã đi vào lịch sử và đã viết nên lịch sử.
Hành trình “Tìm đường cứu nước” của Bác luôn đầy những chông gai và thử thách, luôn đầy những gian khổ và hy sinh. Chúng ta hãy cùng lắng đọng với những dòng thơ trong tác phẩm “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên để hiểu thế nào là nỗi lòng của một lãnh tụ và hiểu thế nào là những hy sinh.
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết "Người đi tìm hình của Nước"
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài, với nhiều nghề khác nhau, nhiều tên khác nhau, Bác đã phải chịu rất nhiều cực khổ và gian lao. Vậy mà, chỉ với một đoạn thơ, Chế Lan Viên đã vẽ nên một bức tranh khổng lồ, kéo dài khắp thế giới.
Cả bài thơ như tái hiện lại trước mắt người đọc những năm tháng bôn ba, khó nhọc của Bác nơi đất khách, quê người một cách sinh động và chân thật nhất.
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Tôi rất thích bài thơ này, đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và lần nào cũng đầm đìa nước mắt. Còn bạn, bạn có khóc không? Tôi nghĩ, dù là người có trái tim sắt đá nhất, khi nghe bài thơ này cũng không thể nào kìm nén được xúc động. Bởi lẽ, Bác luôn là người lo trước cái lo thiên hạ và vui sau cái vui thiên hạ. Bởi lẽ, nỗi đau mất nước luôn canh cánh trong lòng: “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc” và bởi lẽ lòng yêu nước của Người là không gì có thể so sánh nổi.
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Tôi tâm đắc và cảm động vô cùng giây phút Bác vui mừng và xúc động khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc. “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin” đong sao hết niềm vui của Bác khi tiếp cận Luận cương của Lênin, đếm sao đầy những giọt nước mắt Người đã rơi vì nỗi đau dân tộc: “Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở - Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương”. Vậy mà, “Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”, có phải là điều kỳ lạ lắm không? Vâng, kỳ lạ là ở chỗ ấy, có nhiều người khi đọc qua sẽ đáp ngay rằng chủ thể ấy chính là Bác, Bác khóc chứ còn ai vào đây nữa? Nhưng nếu phân tích và tìm hiểu sâu hơn về bài thơ, điều thú vị nằm ở đó và nó tạo nên cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. Con đường cứu nước, chính là con đường khai sinh ra đất nước, là “đi tìm hình của nước” giống như tiêu đề bài thơ. “Phút khóc đầu tiên” đó chính là phút khóc chào đời, xin cho tôi mượn những lời bình của TS. Chu Văn Sơn về giây phút chào đời ấy: “Đất nước Việt Nam mới đã chính thức tượng hình trong Bác, đã có mặt trên đời vào thời điểm Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Phút khóc đầu tiên của nó, tiếng khóc chào đời của nước Việt Nam trứng nước đã chuyển hóa thành tiếng cười tột cùng sung sướng của nhà cách mạng”. Để rồi, khi Người mang Luận cương Lênin, mang ánh sáng cách mạng về quê nhà: “Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất - Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai” thì đất nước Việt Nam độc lập, tự do đã thực sự sản sinh từ đó.
Bác thấy:
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai
Toàn bộ bài thơ là sự xúc động của tác giả trước vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là việc khắc họa hình ảnh một con người siêu phàm nhưng bằng xương bằng thịt, bằng những biến cố lịch sử, bằng chính cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người.
Có phải vì từ lâu rồi Bác đã sống trong tim của mỗi người dân Việt nên tác phẩm này chiếm được cảm tình của độc giả? Hay bởi những câu thơ quá chân thật và đầy xúc cảm của nhà thơ? Tôi nghĩ có lẽ cả hai yếu tố này đều góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Cảm ơn nhà thơ Chế Lan Viên đã tái hiện sống động hình ảnh Bác Hồ chân thật, bình dị và gần gũi đến vậy. Cảm ơn Bác đã tạo nên hình hài đất nước, để hôm nay, cháu và những người đang ngồi đây không chỉ có hòa bình, cơm no, áo ấm, mà chúng cháu còn có thể tự hào nói rằng chúng cháu đang góp một phần công sức của mình để đưa nước Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Bác hằng mong ước.
Hơn lúc nào hết tôi muốn thét lên một cách tự hào rằng: “Tôi là người Việt Nam, tôi yêu dân tộc Việt Nam”.
Trải qua muôn ngàn gian khó với biết bao thử thách, gian lao, cuối cùng Người đã tìm được chân lý cách mạng và cũng là con đường sáng cho dân tộc:
Luận cương đến Bác Hồ. Và người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Cả đất trời như cùng hồi hộp, nín thở trong giây phút ấy. Chính từ giây phút này ánh sáng của tự do, độc lập mà bấy lâu nay Bác và cả dân tộc trông mong đã dần ló dạng. Thời khắc lịch sử được nhà thơ miêu tả với niềm xúc động lan tỏa trên từng câu chữ. Lặng lẽ giở từng trang sách, lịch sử như dừng chân ghé lại nơi này để lắng nghe nhịp đập hạnh phúc trong trái tim Người. Giọt nước mắt sung sướng của những người vô sản gặp nhau, chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã soi sáng tâm hồn Bác, Người đón nhận chân lý cách mạng ấy bằng tất cả con tim và khối óc của mình. Những vật vô tri bên Bác cũng cảm thông với giây phút thiêng liêng này, tất cả như cùng sẻ chia, cùng hòa chung niềm xúc động để rồi niềm hạnh phúc, sung sướng chợt vỡ òa