Cảm nhận vẻ đẹp hai đoạn thơ sau:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
(Đồng chí – Chính Hữu)
"Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về dây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua của kính vỡ rồi."
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Những nét chung trong hai đoạn thơ: (0,75 điểm)
- Cả hai đoạn thơ đều thể hiện hình tượng người lính hào hùng, hào hoa:(0,5 điểm)
+ Họ chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nghiệt ngã của chiến tranh, có chung dòng máu yêu nước, dũng cảm, kiên cường trước mọi nguy nan.
+ Họ luôn lạc quan, yêu đời, lãng mạn và gắn bó trong tình đồng chí đồng đội
=> Viết về đề tài người lính ở hai thời điểm khác nhau nhưng cả hai nhà thơ đều gặp nhau ở cách thể hiện đó là bút pháp hiện thực kết hợp bút pháp lãng mạn. (0,25 điểm)
3. Những nét đặc sắc riêng trong mỗi đoạn thơ
3.1. Vẻ đẹp của đoạn thơ trong Đồng chí (1,25 điểm)
- Đoạn thơ là bức tranh tuyệt đẹp về tình đồng chí với hình ảnh của chiến trường, thiên nhiên, người lính với tâm hồn và tinh thần cao đẹp. (0,25điểm)
- Hình ảnh người lính trên nền hiện thực “rừng hoang sương muối” với cái lạnh thấu xương nhưng vẫn kề vai sát cánh bên nhau tạo nên tư thế vững chãi, hiên ngang. (0,25 điểm)
- Hình ảnh “vầng trăng” tạo nên chất lãng mạn. Hình ảnh người lính, cây súng, vầng trăng hòa quyện vào nhau tạo nên hình ảnh thơ đẹp đẽ, thơ mộng “đầu súng trăng treo”. Đó là tình đồng đội cao đẹp, tâm hồn lãng mạn, yêu đời, lạc quan của người lính. (0,5 điểm)
- Nghệ thuật: ngôn ngữ bình dị, hình ảnh gợi cảm, cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng, bút pháp tài hoa (0,25điểm)
3.2. Vẻ đẹp của đoạn thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1,25 điểm)
- Đoạn thơ là hình ảnh đẹp về người lính lái xe Trường Sơn thời kháng chiến chống Mỹ trong những giây phút nghỉ ngơi với tình cảm thân tình, gắn bó.(0,25điểm)
- Những hình ảnh của hiện thực chiến tranh bom đạn khốc liệt “chiếc xe từ trong bom rơi”, “cửa kính vỡ rồi” càng làm nổi bật những con người coi thường gian khổ với niềm lạc quan. (0,25điểm)
- Tâm hồn trẻ trung, chan hòa trong tình đồng chí đồng đội thắm thiêt bình dị “hộp thành tiểu đội”, “gặp bạn bè suốt dọc đường”, “bắt tay”... Đây là những hình ảnh thú vị bộc lộ sự hồn nhiên vô tư- một nét rất riêng của người lính thời chống Mỹ. (0,5điểm)
Nghệ thuật: Ngôn ngữ giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, hình ảnh độc đáo. (0,25điểm)
4. Đánh giá chung: (0,25 điểm)
- Đây là những câu thơ hay, giản dị, xúc động thể hiện chân thực hiện thực chiến tranh khốc liệt và tâm hồn cao đẹp của người lính – những nhân vật trung tâm của thời đại.
- Suy nghĩ về vẻ đẹp thế hệ cha anh và liên hệ bản thân.
câu thơ này đã làm toát lên vẻ đẹp chung của cả bài thơ.
Cả bài thơ Đồng chí đã ngợi ca vẻ đẹp bình dị, mộc mạc mà cao cả của anh bộ đội Cụ Hồ và tình đồng chí, đồng đội hết sức thắm thiết, cảm động, chân thành, thiêng liêng, bất tử.
Ở bài thơ Đồng chí, tình đồng chí, đồng đội được khơi nguồn sâu xa và nảy nở từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân đói nghèo, cực khổ. Từ đó, họ thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ với nhau mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi thiếu thốn, gian lao, ốm đau, hoạn nạn của đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Với ba câu thơ cuối cùng, chúng ta thấy nhà thơ Chính Hữu đã vẽ lên một bức tranh rất đẹp và trữ tình về những người chiến sĩ. Vào hoàn cảnh đêm về, giữa rừng hoang, có sương muối, những người lính phải thao thức trong cảnh khắc nghiệt để chờ giặc. Chúng ta biết rằng, đêm là khoảng thời gian mọi người thường ngon giấc sau một ngày lao động mệt nhọc. Nhưng trong những chuỗi ngày dài kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là những năm 1946, 1947, 1948, 1949, lực lượng quân sự của ta nếu so sánh với quân Pháp thì phần mạnh không thuộc về ta. Vì vậy, các anh bộ đội Cụ Hồ thường phải lợi dụng lúc màn đêm bao phủ để hành quân và tìm cách tiêu diệt giặc theo phương thức tấn công bất ngờ, chớp nhoáng rồi lui về vị trí phòng thủ. Do đó, bộ phận chỉ huy phải chọn địa bàn chiến đấu ở những nơi rừng hoang, địa hình địa vật có lợi cho ta mà bất lợi cho giặc. Giữa khu rừng mùa đông ở Việt Bắc, nhiều đêm xuất hiện sương muối. Sương muối là sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối trên cậy cỏ hay mặt đất. Ở miền Bắc nước ta nói chung và ở Việt Bắc nói riêng, về mùa đông, những ngày có sương muối trời rất lạnh. “Sương muối làm buốt tê da như những mũi kim châm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác” (Chính Hữu). Vậy mà các anh chiến sĩ vẫn đứng đó giữa gió sương lạnh lẽo, không một chút than van.
Nhưng trong những phút giây mỏi mòn chờ đợi giặc tới, trước mắt các anh bộ đội bỗng hiện lên một khung cảnh đẹp kì diệu và thi vị: một vầng trăng lửng lơ giữa bầu trời. Tại thời điểm này, trên bức tranh thơ tráng lệ có ba nhân vật: khẩu súng, người chiến sĩ vệ quốc và vầng trăng.
Mặt khác, ở ba câu thơ cuối cùng, chúng ta thấy nhà thơ Chính Hữu đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp của tâm hồn người chiến sĩ. Giữa hoàn cảnh “rừng hoang sương muối”, những người lính đoàn kết bên nhau “chờ giặc tới” rất hồi hộp, căng thẳng thì xuất hiện hình ảnh:
Đầu súng trăng treo
Thật bất ngờ làm sao!
Lẽ ra, cái mà độc giả đón nhận một cách tự nhiên là các anh chiến sĩ “chờ giặc tới” thì phải gặp quân cướp nước đó. Rồi trận chiến giữa ta và giặc phải diễn ra một cách dữ dội, quyết liệt, một mất một còn vì sự tồn vong của dân tộc. Trái lại, những người đắm say, thưởng thức nghệ thuật lại bắt gặp một hình ảnh thanh bình, êm dịu, gợi cảm, tràn đầy chất thơ. Và nhờ sự xuất hiện bất ngờ của mạch thơ, chúng ta bất ngờ cảm nhận được một vẻ đẹp lung linh lãng mạn toát ra từ tâm hồn của các anh chiến sĩ. Các anh trong tay lăm lăm khẩu súng chờ đợi diệt quân thù nhưng tâm hồn vẫn luôn hướng đến ánh sáng của cái Đẹp thanh bình, tràn trề nhựa sống.
Đặc biệt, trong câu thơ Đầu súng trăng treo, từ treo được Chính Hữu dùng rất “đắt”. Thông thường, từ treo trong Tiếng Việt có các nghĩa:
1- Làm cho được giữ chặt vào một điểm cố định, thường là ở trên cao, để cho buông thòng xuống.
2- Làm cho được cố định hoàn toàn ở một vị trí trên cao, dựa vào một vật khác.
3- Nêu giải thưởng.
4- Tạm gác, tạm đình lại trong một thời gian (Từ điển Tiếng Việt của Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm).
Còn từ “treo” trong bài thơ, vừa gợi tả vầng trăng như chợt hiện ra lơ lửng dưới mắt người chiến sĩ, vừa nói lên sự trẻ trung, tình tứ, thuần phác trong tâm hồn các anh khi trông thấy vầng trăng.
Hình ảnh đầu súng trăng treo chỉ có 4 chữ nhưng lại có “nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh, trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mùi súng” (Chính Hữu).
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” đúng là một sự đột phá thi vị của nghệ thuật thơ Chính Hữu. Lần đầu tiên trong thi ca Việt Nam mới có được một hình ảnh cô đúc như vậy. Phải đến sáu năm sau, 1954, những người yêu thơ mới bắt gặp một hình ảnh tương tự:
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Ngoài ra, hình ảnh đầu súng trăng treo, theo Giáo sư Nguyễn Văn Long, còn mang “ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi những liên tưởng phong phú. Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ ... Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Xa hơn, đó cũng xem là biểu tượng cho thơ ca kháng chiến - nền thơ kết hợp chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn”.
Tóm lại, một bài thơ hay không phải là một bài thơ có quá nhiều dòng mới hay hoặc cả bài thơ câu nào cũng hay. Đôi khi một bài thơ có một vài ba câu hay thì cả bài thơ đó cũng trở nên hay và tác giả đó có thể nổi tiếng. Vậy nên, cả cuộc đời làm thơ của Chính Hữu, chỉ một bài Đồng chí, chỉ ba câu thơ cuối cùng của bài thơ, nhất là hình ảnh “đầu súng trăng treo”, cũng đủ giúp nhà thơ lưu danh trên thi đàn. Thật vậy, ba câu thơ ấy, nghĩ thì thấy sâu xa, đọc lên nghe thì xúc động. Chính vì sức sống mãnh liệt ấy, khi bài thơ được phổ nhạc, được chuyển lời vọng cổ, thính giả, khán giả khắp nơi đều nhiệt liệt ủng hộ và hết lời khen ngợi.