Cứ mỗi lần nghe bài hát này, lòng em chợt rạo rực lạ thường. Em thèm muốn được sống lại những ngày lịch sử rực rỡ cờ hoa, hòa mình vào nhịp điệu khẩn trương của cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu.
Và cứ mỗi lần được nghe bài hát, em lại nhớ đến khí thế hào hùng không kém trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Bên cạnh lời văn hùng hồn, bài hịch còn toát lên tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của vị tướng tài ba đời Trần.
Ngay từ đầu đoạn, ta đã cảm thấy có sự chẳng lành “Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”. Quả vậy, giặc Nguyên Mông xâm lược đất nước, ngang nhiên giày xéo mảnh đất thiêng liêng, gây ra nhiều tội ác ngất trời.
Mảnh đất từ bao đời nay vẫn nuôi sống chở che cho người Việt Nam, nay rên xiết dưới gót sắt của quân thù, thử hỏi mỗi người dân Việt, trong dạ ai lại không đau xót? Nhìn cảnh ấy, lòng tác giả dầy lên một nỗi căm hận đối với bọn ngoại bang, chúng là bọn “cú diều” mà lại “sỉ mắng triều đình”, chúng hèn hạ thấp kém như “thân dê chó” mà đòi “bắt nạt tể phụ”. Hình ảnh ẩn dụ được ông sử dụng như một cái tát vào mặt bọn xâm lăng, vạch trần bộ mặt dối trá của chúng. Thật hả hê khi dưới ngòi bút của mình, Trần Quốc Tuấn bộc lộ rõ ràng lòng căm ghét, khinh rẻ bọn giặc lang sói ấy.
Là người có lòng yêu nước thiết tha, ông không đang tâm ngồi nhìn bọn giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, làm bao điều xấc láo. Lòng căm thù bọn cướp nước, nỗi xót xa trước cảnh nước mất nhà tan, bao nỗi niềm trăn trở ưu tư ngày đêm day dứt trong tim làm ông “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Lối nói theo văn phong trữ tình cổ xưa của ông như một lời thủ thỉ tâm sự, bày tỏ trọn tấm lòng chân thành, tha thiết đối với vận mệnh đất nước. Qua những lời lẽ bình thường, giản dị nhất của nhân dân được ông sử dụng, ta thấy rõ tình cảm rất thực nơi ông, đó là tình yêu nước sâu sắc trong tim mà khi hiểu rõ mấy ai lại không cảm thấy xúc động bồi hồi.
Từ nỗi xót xa trước cảnh đất nước li tan, lòng ông dâng lên cuồn cuộn sự căm thù, như muốn vỡ tung lồng ngực để hét to lên tiếng “đánh”, để “xả” thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Được như thế, thì “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Một lần nữa, bằng cách dùng các điển tích, ông đã thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương của mình làm cho chắc chắn bất kì một ai khi đọc những lời lẽ ấy, hẳn không thể nào quay mặt làm ngơ.
Điểm đặc biệt ở Trần Quốc Tuấn là tình yêu đất nước của ông không phải chỉ tiềm ẩn mãi trong tim để suốt đời đau xót mà được bộc lộ bằng việc làm cụ thể, sáng suốt: ông kêu gọi các tướng sĩ thức tỉnh cùng nhau dấn bước ra chiến trường. Bằng những lời lẽ hùng hồn, ông nghiêm khắc phê phán các tướng sĩ còn quá thờ ơ trước thời cuộc: “Nay các người ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn...”, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc “lấy việc chọi gà làm., quyến luyến vợ con...”. Từ “hoặc” được lặp đi lặp lại nhiều lần ở đây nhằm nhấn mạnh, xoáy sâu vào tâm trí của các tướng sĩ, cho thấy thái độ rất bàng quan của họ trong thời gian qua.
Để thêm sức thuyết phục cho lời lẽ của mình, ông nêu ra rất rõ tác hại của những thói đam mê ấy bằng những câu tương phản liên tiếp nhau. Đặc biệt hơn, tác giả kết thúc lời phê phán bằng câu hỏi: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?”. Câu hỏi không cần trả lời nhưng cứ day dứt mãi trong tim của các tướng sĩ, giúp họ nhìn thấy lỗi lầm của mình.
Bài hịch đã bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn. Say mê đọc những lời hịch lúc thì thiết tha lúc thì mạnh mẽ, em cảm thấy mình cũng có những trạng thái căm ghét, khinh khi bọn giặc và đau đớn, xót xa trước cảnh nước mất nhà tan. Rõ ràng bài hịch đã cuốn hút em, đưa em trở lại những ngày lịch sử oai hùng thuở trước.
Từ thời Trần Quốc Tuấn đến nay, thời gian quả là rất dài, song mỗi lần đọc bài hịch, em lại cảm thấy đâu đây không khí hào hùng, sôi động của các trận chiến oanh liệt khiến lòng em dấy lên niềm tự hào, vinh dự về trang sử vàng chói lọi: Ba lần đại thắng quân Nguyên mà em tin chắc rằng, bài “Hịch tướng sĩ” cũng đã góp phần không nhỏ.
“Kiếm nguồn tươi sáng ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông...”.
Bài hát vẫn vang vang thúc giục. Lòng rộn bao niềm vui, tự hào về Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp, em thấy rõ hơn bao giờ hết nhiệm vụ của chính mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mai sau. Em sẽ cố gắng thực hiện bằng được những ước mơ của mình để k
Trần Quốc Tuấn là anh hùng dân tộc có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Bài hịch ra đời trước khi cuộc chiến chống quân Nguyên nổ ra lần thứ hai tại nước Nam. Qua bài hịch chúng ta thấy được hình tượng anh hùng Trần Quốc Tuấn gan dạ, yêu nước thương dân hơn cả tính mạng của mình. Đồng thời thấy được tinh thần mang đậm hào khí Đông A của quân và dân ta.
Trần Quốc Tuấn hiện lên là một người yêu nước và thương dân nồng nàn cháy bỏng. Tình yêu đó được thể hiện qua sự trằn trọc, suy nghĩ và ý chí muốn đánh đuổi quân xâm lược để mang lại chủ quyền, độc lập cho dân tộc ta. Khi nhìn thấy những tội ác của quân giặc phơi bày trên đất nước ta, ông đã đanh thép và nghiêm giọng “ngó thấy sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem than dê cho mà bắt nạt tể phụ”. Với câu chữ sắc bén, mạnh mẽ và dứt khoát, Trần Quốc Tuấn đã vạch mặt sự độc ác, gian trá của quân giặc cũng như sự mê muội của triều đình. Hành động của quân giặc đã khiến cho Trần Quốc Tuấn căm phần, dồn nén cảm xúc vào bên trong.
Trần Quốc Tuấn còn lấy một loạt dẫn chứng về tội ác tàn bạo, những hành động vô liêm sỉ của bọn quân giặc mà thêm căm phẫn “thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi mua ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vưng mà thu bạc vàng, để vơ vét của dân”. Những hành động vô liêm sỉ và tàn bạo, trơ trẽn đó đã khiến cho nhân dân và tướng sĩ căm phẫn đến cực độ. Trần Quốc Tuấn đã khéo léo gợi nên long căm thù và phẫn uất đối với nhân dân, tăng thêm ý chí chiến đấu của nhân dân.
Người đọc sẽ nhận ra nỗi lo lắng, trằn trọc của Trần Quốc Tuấn khi thấy cảnh đất nước lâm vào nước mất, nhà tan đến đau long “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gói, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Một con người khiến người khác ngưỡng mộ và khâm phục vì tình yêu nước và thương nhà đến mãnh liệt như vậy. Ông nguyện vì dân vì nước để sống và cống hiến hết mình.
Với những câu thơ đau long nhưng đanh thép Trần Quốc Tuấn đã bộc lộ sự cống hiến hết mình “dẫu cho trăm thây phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui”. Ông đã căm phẫn đến cực độ, có thể hi sinh chính bản thân mình để dành lại độc lập cho dân tộc, đem lại hòa bình và ấm no nhất.
Tình yêu thương của ông dành cho nhân dân cho quân sĩ được bộc lộ một cách sâu sắc ở trong bài Hịch “không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Tấm lòng của ông thật đáng ngưỡng mộ, một con người gần gũi và chân tình.
Bên cạnh tình yêu của mình dành cho quân và dân thì ông cũng hết sức căm phẫn khi có những người chỉ biết hưởng thụ, không biết cống hiến “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà khong biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông đã gay gắt phê bình những tư tưởng sai lầm, lệch lạc đi ngược lại với ý muốn của dân tộc.
Ông luôn nêu cao tinh thần và ước muốn của nhân dân ta. Sống và cống hiến hết mình cho đất nước chính là lý tưởng sống của con người cao cả, vĩ đại ấy.
Hịch tướng sĩ được viết theo thể hịch đã truyền tải được nội dung cũng như ý chí của tác giả. Giọng thơ mạnh mẽ, đanh thép, hào hùng, căm phẫn đến cực độ đã khơi gợi tinh thần yêu nước cũng như ý chiến chiến đấu quyết liệt nhất. Trần Quốc Tuấn đã khiến cho người đọc thấy khâm phục trước tấm long đối với nước với dân
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đua ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giạc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”.Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: : “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, ten tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đua ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giạc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”.Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: : “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, ten tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Đã rất nhiều thế kỉ đã trôi qua thế nhưng Hịch tướng sĩ vẫn được những thế hệ sau này nhắc tới như một áng văn bất hủ về tinh thần chiến đấu mãnh liệt chống quân xâm lược. Khi đó, đất nước chúng ta phải cùng nhau chống lại quân Mông Nguyên xâm lược, người chỉ huy Trần Quốc Tuấn lúc bấy giờ luôn canh cánh trong lòng quyết tâm giành được chiến thắng và bảo vệ bờ cõi đã viết lên bài Hịch tướng sĩ. Đây chính là cú hích, đã khơi dậy được ngọn lửa chiến đấu chống quân xâm lược và động viên ý chí của những người tham gia chiến đấu. Với lời lẽ đanh thép và những lập luận chặt chẽ, sắc bén đã giúp cho Hịch tướng sĩ trở thành áng văn bất hủ mọi thời đại.
Mở đầu, Trần Quốc Tuấn đã vạch ra những tội ác của quân xâm lược nhằm khơi gợi lên lòng căm thù quân giặc. Hàng loạt những chứng cứ đã được đưa ra với sức thuyết phục lớn để chỉ rõ tội ác của những kẻ tham lam và độc ác. Chúng đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt rể phụ, đòi ngọc lụa thu bạc vàng. Chúng chà đạp và giày xéo lên tự tôn của dân tộc chúng ta một cách thản nhiên. Điều đó càng làm cho lòng căm thù giặc trở nên lớn mạnh hơn bao giờ hết. Cũng chính bởi vậy mà trong mắt của Trần Quốc Tuấn nói riêng và những người con của đất nước nói chung thì chúng không phải là con người, mà là cú diều, dê chó, hổ đói. Với những kẻ như vậy thì chúng sẽ không bao giờ biết thế nào là đủ, thế nào là giới hạn của mình, bởi vậy, nếu như chúng ta càng nhún nhường thì chúng lại càng lấn tới. Và lúc này, khát vọng chiến thắng quân xâm lược đã trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết bởi khi mặt đất của chúng ta còn bị những kẻ như vậy giẫm đạp lên, bầu không khí của chúng ta còn bị những kẻ như vậy hít thở cùng hay lòng tự tôn dân tộc còn bị chà đạp thì nhân dân chúng ta vẫn còn phải chịu những cảnh khổ cực vô cùng.
Sớm cảnh giác những hành vi của quân giặc, vị tướng nhà Trần đã sớm có sự cảnh giác và lo lắng cho vận mệnh của đất nước. Ông trực tiếp bày tỏ những suy nghĩ cùng quyết tâm chiến thắng quân giặc của mình cho ba quân cùng được nghe. “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”. Với những lời lẽ tha thiết mang đầy tình cảm nhưng cũng hết sức đanh thép, tâm tư của vị tướng ấy cũng được tất cả những người nghe cảm thấy sôi sục ý chí chiến đấu mãnh liệt. Niềm tin ấy đã trở lên kiên quyết hơn bao giờ hết, nó làm cho ông luôn phải suy nghĩ về nó, tới mức quên ăn quên ngủ, nằm gai nếm mật bởi đau lòng trước những nỗi khổ của nhân dân khi phải chịu sự giày xéo của quân xâm lược.
Lời lẽ trong đoạn văn chỉ mang tính chất ước lệ nhưng những khí chất cùng hào sảng trong từng câu, từng chữ như đánh sâu vào lòng của người đọc, người nghe giúp họ hiểu được tình cảm cao đẹp mà ông giành cho đất nước, khơi gợi ý chí chiến đấu của ba quân chống xâm lược, bảo vệ giang san, bở cõi. Đó chính là tiếng chuông ngân vang, dội vào trong lòng của người đọc những tình cảm, những cảm xúc mãnh liệt mà không phải một áng văn nào cũng có thể làm được. Đoạn văn như ngọn lửa bùng cháy cả trái tim của con người, nỗi căm thù giặc sâu sắc, lại lo lắng cho vận mệnh của cả đất nước và số phận của nhân dân đất nước. Thế mới biết, phải là một người có trái tim bao la, rộng lớn, bao trùm lên cả thiên hạ mới có thể suy nghĩ được và làm được những điều to lớn cho nhân dân như vậy.
Cả bài viết là một áng văn bất hủ về tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc mà không phải tác giả nào cũng có thể làm được. Bởi tất cả đều xuất phát từ những tâm tư, tình cảm của chính tác giả- nhà quân sự tài ba, vĩ đại đã khiến cho những lời văn trở nên đanh thép, trong văn có kiếm, đó cũng là một cách chiến đấu chống quân xâm lược tuyệt vời. Nhờ có vậy mà tinh thần của toàn quân và dân nhà Trần đã anh dũng chiến đấu và có chiến thắng vang dội trong lịch sử mà con cháu luôn tự hào để noi theo những tinh thần và ý chí ấy.
Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.
Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng xả thân cho đất nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".
Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.
Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu, từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Nguyên tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên"...
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đua ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giạc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”.Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: : “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, ten tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Cứ mỗi lần nghe bài hát này, lòng em chợt rạo rực lạ thường. Em thèm muốn được sống lại những ngày lịch sử rực rỡ cờ hoa, hòa mình vào nhịp điệu khẩn trương của cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu.
Và cứ mỗi lần được nghe bài hát, em lại nhớ đến khí thế hào hùng không kém trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Bên cạnh lời văn hùng hồn, bài hịch còn toát lên tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của vị tướng tài ba đời Trần.
Ngay từ đầu đoạn, ta đã cảm thấy có sự chẳng lành “Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”. Quả vậy, giặc Nguyên Mông xâm lược đất nước, ngang nhiên giày xéo mảnh đất thiêng liêng, gây ra nhiều tội ác ngất trời.
Mảnh đất từ bao đời nay vẫn nuôi sống chở che cho người Việt Nam, nay rên xiết dưới gót sắt của quân thù, thử hỏi mỗi người dân Việt, trong dạ ai lại không đau xót? Nhìn cảnh ấy, lòng tác giả dầy lên một nỗi căm hận đối với bọn ngoại bang, chúng là bọn “cú diều” mà lại “sỉ mắng triều đình”, chúng hèn hạ thấp kém như “thân dê chó” mà đòi “bắt nạt tể phụ”. Hình ảnh ẩn dụ được ông sử dụng như một cái tát vào mặt bọn xâm lăng, vạch trần bộ mặt dối trá của chúng. Thật hả hê khi dưới ngòi bút của mình, Trần Quốc Tuấn bộc lộ rõ ràng lòng căm ghét, khinh rẻ bọn giặc lang sói ấy.
Là người có lòng yêu nước thiết tha, ông không đang tâm ngồi nhìn bọn giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, làm bao điều xấc láo. Lòng căm thù bọn cướp nước, nỗi xót xa trước cảnh nước mất nhà tan, bao nỗi niềm trăn trở ưu tư ngày đêm day dứt trong tim làm ông “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Lối nói theo văn phong trữ tình cổ xưa của ông như một lời thủ thỉ tâm sự, bày tỏ trọn tấm lòng chân thành, tha thiết đối với vận mệnh đất nước. Qua những lời lẽ bình thường, giản dị nhất của nhân dân được ông sử dụng, ta thấy rõ tình cảm rất thực nơi ông, đó là tình yêu nước sâu sắc trong tim mà khi hiểu rõ mấy ai lại không cảm thấy xúc động bồi hồi.
Từ nỗi xót xa trước cảnh đất nước li tan, lòng ông dâng lên cuồn cuộn sự căm thù, như muốn vỡ tung lồng ngực để hét to lên tiếng “đánh”, để “xả” thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Được như thế, thì “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Một lần nữa, bằng cách dùng các điển tích, ông đã thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương của mình làm cho chắc chắn bất kì một ai khi đọc những lời lẽ ấy, hẳn không thể nào quay mặt làm ngơ.
Điểm đặc biệt ở Trần Quốc Tuấn là tình yêu đất nước của ông không phải chỉ tiềm ẩn mãi trong tim để suốt đời đau xót mà được bộc lộ bằng việc làm cụ thể, sáng suốt: ông kêu gọi các tướng sĩ thức tỉnh cùng nhau dấn bước ra chiến trường. Bằng những lời lẽ hùng hồn, ông nghiêm khắc phê phán các tướng sĩ còn quá thờ ơ trước thời cuộc: “Nay các người ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn...”, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc “lấy việc chọi gà làm., quyến luyến vợ con...”. Từ “hoặc” được lặp đi lặp lại nhiều lần ở đây nhằm nhấn mạnh, xoáy sâu vào tâm trí của các tướng sĩ, cho thấy thái độ rất bàng quan của họ trong thời gian qua.
Để thêm sức thuyết phục cho lời lẽ của mình, ông nêu ra rất rõ tác hại của những thói đam mê ấy bằng những câu tương phản liên tiếp nhau. Đặc biệt hơn, tác giả kết thúc lời phê phán bằng câu hỏi: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?”. Câu hỏi không cần trả lời nhưng cứ day dứt mãi trong tim của các tướng sĩ, giúp họ nhìn thấy lỗi lầm của mình.
Bài hịch đã bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn. Say mê đọc những lời hịch lúc thì thiết tha lúc thì mạnh mẽ, em cảm thấy mình cũng có những trạng thái căm ghét, khinh khi bọn giặc và đau đớn, xót xa trước cảnh nước mất nhà tan. Rõ ràng bài hịch đã cuốn hút em, đưa em trở lại những ngày lịch sử oai hùng thuở trước.
Từ thời Trần Quốc Tuấn đến nay, thời gian quả là rất dài, song mỗi lần đọc bài hịch, em lại cảm thấy đâu đây không khí hào hùng, sôi động của các trận chiến oanh liệt khiến lòng em dấy lên niềm tự hào, vinh dự về trang sử vàng chói lọi: Ba lần đại thắng quân Nguyên mà em tin chắc rằng, bài “Hịch tướng sĩ” cũng đã góp phần không nhỏ.
“Kiếm nguồn tươi sáng ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông...”.
Bài hát vẫn vang vang thúc giục. Lòng rộn bao niềm vui, tự hào về Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp, em thấy rõ hơn bao giờ hết nhiệm vụ của chính mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mai sau. Em sẽ cố gắng thực hiện bằng được những ước mơ của mình để khi lật lại những trang sử đẹp ấy, em sẽ không phải xấu hổ với những người anh hùng thuở trước.
Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.
Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng xả thân cho đất nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".
Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.
Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu, từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Nguyên tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên"...
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng văn võ song toàn, người đã có công lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tên của ông luôn mãi được khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam cùng với những trang sử vàng của dân tộc. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ”-áng văn bất hủ được ông viết trước cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần II (1285) là lời hiệu triệu của toàn quân ra trận, nhưng cũng chất chứa một lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha của vị Quốc công tiết chế này.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, những trang sử hào hùng đã ghi lại biết bao tấm gương của các anh hùng, những vị lãnh đạo kiệt xuất. Họ đã cống hiến cả cuộc đời cho nền độc lập nước nhà… và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một trong số những vị anh hùng như thế! Điểm nổi bật ở Ông là tấm lòng thiết tha yêu nước của Tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện cao độ khi ông tố cáo tội ác của quân thù bằng lời lẽ đanh thép. Với bản chất ngang tàng, hống hách, chúng không chỉ coi thường dân ta, mà còn sỉ nhục triều đình từ vua đến quan: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạn tể phụ”. Chúng ta càng căm tức bọn giặc hơn nữa khi chứng kiến hành động rất tàn bạo, tham lam, nhằm vơ vét của cải của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiêu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Thật là một bọn cầm thú, chẵng khác nào dê, hổ đói, cú diều. Vậy mục đích của tác giả khi tố cáo tội ác của quân thù là khích lệ lòng căm thù giặc của tướng sĩ, của toàn dân và khơi gợi nỗi nhục mất nước của 1 dân tộc.
Trước nạn ngoại xâm, quốc gia dân tộc đang lâm nguy. Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi lo lắng đó được ông bày tỏ với binh sĩ: “Ta thường đến bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành niềm uất hận ngàn thâu, chứa chan trong lòng khi chưa rửa được nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc mà trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân.
Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, họ còn phải biết yêu thương binh sĩ. Và Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Thật là cảm động thay cho tình sâu nghĩa nặng của ông đối với binh sĩ. Cũng chính nhờ tình cảm đó đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ.
Yêu thương, lo lắng binh sĩ không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ nhẹ nhành mà là nghiêm khắc, quyết liệt phê phán những việc làm sai trái của họ: thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh tổ quốc lâm nguy: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”. Đó là những hành động hưởng lạc, ham vui, quên mất trách nhiệm của mình đối với vận mệnh tổ quốc: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.” Những lời giáo huấn của ông thật ý nghĩa, nó đã thức tỉnh biết bao binh lính lầm đường lạc lối trở về con đường đúng đắn, giúp họ nhận thức hơn về độc lập dân tộc. Và hơn hết là chỉ ra những việc cần làm đó là hãy đề cao cảnh giác, đoàn kết với nhau trước nguy cơ bị nước ngoài lăm le bờ cõi, đặc biệt hãy chăm học “Binh thư yếu lược” do chính trần Quốc Tuấn biên soạn cũng là một cách rèn luyện để chiến thắng quân thù
Toàn bộ văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã chứng minh được một điều rằng: ông là một vị tướng kiệt suất tài ba, không những giỏi về quân sự mà còn văn chương xuất chúng, mấy ai sánh được. Ngoài ra ông còn thấm đẫm một niềm thương dân sâu sắc, là tiêu biểu cho lòng yêu nước lúc bấy giờ. Tác phẩm này của ông xứng đáng là một ánh thiên cổ hùng văn trong nền văn học nước nhà. Tên tuổi của Ông đã gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc.