C1 : Những dấu tích nào chứng tỏ thuật luyện kim đã ra đời ở Phùng Nguyên - Hoa Lộc ?
C2 : Theo em, tên Âu Lạc có ý nghĩa gì ?
C3 : Hãy trình bày những thay đổi của đất nước ta thời Âu Lạc
C4 : Hãy trình bày những nét chính trong đời sống vật chất của cư dân Văn Lang
C5 : Nêu nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm của An Dương Vương trong việc để mất nước
C2: ÂU LẠC: là quốc gia cổ đại của người Việt, ra đời tiếp sau nhà nước Văn Lang trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Ở đây có hai tộc người lớn là Tây Âu và Lạc Việt sinh sống, có nhiều quan hệ giao lưu văn hoá, kinh tế. Đứng đầu Tây Âu là Thục Phán, đứng đầu Lạc Việt là Hùng Vương. Cuối thế kỉ 3 trước Công nguyên., trong kháng chiến chống quân xâm lược của đế chế Tần, Thục Phán đã hợp nhất hai tộc người này và thành lập nước Âu Lạc , đóng đô ở Cổ Loa . Cũng có thuyết nói nước Âu Lạc thành lập năm 257 trước Công nguyên. Nước Âu Lạc tồn tại đến 179 trước Công nguyên thì bị Triệu Đà thôn tính.
C3:
Sau nhiều thế kỉ phát triển, đất nước cuối thời Hùng Vương và đầu thời Âu Lạc đã có những tiến bộ đáng kể. Trong nông nghiệp, lưỡi cày đồng được cải tiến và được dùng phổ biến hơn. Lúa gạo, khoai, đậu, rau, cù... ngày một nhiều hơn. Chăn nuôi, đánh cá, săn bắn đều phát triển.
Các nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt, làm đồ trang sức, đóng thuyền., đều tiến bộ. Ngành xây dựng và luyện kim đặc biệt phát triển. Giáo, mác, mũi tên đồng, rìu đồng, cuốc sắt, rìu sắt được sản xuất ngày càng nhiều.
Dân số tăng lên. Sự phân biệt giữa tầng lớp thống trị và nhân dân cũng sâu sắc hơn.
C4
Nhà ở phổ biến là nhà sàn mái cong hình thuyền hay mái tròn hình mui thuyền, làm bằng gỗ, tre, nứa, lá, có cầu thang tre (hay gỗ) để lên xuống.
Làng, chạ thường gồm vài chục gia đình, sống quây quần ở ven đồi hoặc ở vùng đất cao ven sông, ven biển, ở một vài làng, chạ, người ta đã biết dùng tre rào quanh làng để ngăn thú dữ. Việc đi lại giữa các làng, chạ chủ yếu bằng thuyền.
Thức ăn chính hằng ngày là cơm nếp, cơm tẻ, rau, cà, thịt, cá. Trong bữa ăn, người ta đã biết dùng mâm, bát, muôi. Họ còn biết làm muối, mắm cá và dùng gừng làm gia vị.
Ngày thường, nam thì đóng khố, mình trần, đi chân đất ; còn nữ thì mặc váy, áo xẻ giữa, có yếm che ngực. Mái tóc có nhiều kiểu : hoặc cắt ngắn bó xõa, hoặc búi tó, hoặc tết đuôi sam thả sau lưng. Ngày lễ, họ thích đeo các đồ trang sức như vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai. Phụ nữ mặc váy xòe kết bằng lông chim, đội mũ cắm lông chim hay bông lau.