Tập làm văn lớp 8

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Nguyễn Đình Quân

bạn nào giúp với

​hãy thuyết minh về một thể loại ca dao dân gian

Nguyễn Trần Thành Đạt
29 tháng 12 2016 lúc 14:19

I. Mở bài

Ca dao ra đời từ rất sớm và lưu truyền cho đến ngày nay. Ca dao đã thấm vào ta qua những làn điệu quê hương gần gũi, thân quen. Nhà thơ Nguyễn Duy giãi bày niềm xúc cảm của mình:

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.

Cũng với lời thơ tha thiết, nhà thơ Vũ Quần Phương viết:

Mai này con lớn con khôn

Chân đi muôn dặm - con còn nghe ru

Những lời ru thắm thiết, đậm chất trữ tình trên chính là ca dao.

II. Thân bài

1. Định nghĩa.

Ca dao là một trong những thể loại chủ yếu của nền văn học dân gian Việt Nam. Đó là những sáng tác trữ tình dân gian diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Dựa vào cung bậc tình cảm ấy ca dao được chia làm 3 loại.

2. Phân loại và nội dung.

2.1. Là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi.

Trong suốt chiều dài lịch sử, khắp chiều rộng không gian đất nước, đâu đâu cũng đều vang lên những câu ca về cảnh núi rừng hùng vĩ, cảnh non xanh nước biếc, những sản vật phong phú của mỗi miền:

Sâu nhất là sông Bạch Đằng

Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan

Cao nhất là núi Lam Sơn

Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra.

Ai về Phú Thọ cùng ta

Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.

Hội An bán gấm, bán điều

Khiêm Bồng bán vải, Trà Nhiêu bán hàng

Lụa này thật lụa Cố Đô

Chính tông lụa cống các cô hay dùng

Ca dao nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi rất trong sáng, hồn nhiên, tha thiết:

Con người có tổ có tông

Như cây có cội như sông có nguồn.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Mỗi đêm thắp một đèn trời

Cầu cho cha mẹ ở đời với con.

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.

Đôi ta như thể con ong

Con quấn, con quýt, con trong, con ngoài.

Trong ca dao yêu thương, tình nghĩa hiện lên hình ảnh con người Việt Nam lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hi sinh trong quan hệ giữa người với người... Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người Việt Nam đến cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc sống.

2.2. Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức:

Thương thay thân phận con rùa

Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.

Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và lễ giáo phong kiến gây ra:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen

Ai ơi nếm thử mà xem

Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi.

Cảnh tảo hôn, đa thê, gả bán, ...:

Vợ lẽ như giẻ chùi chân

Chùi xong lại vứt ra sân

Gọi ông hàng xóm có chùi chân thì chùi.

Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng.

Chị em ơi, cho tôi mượn gàu sòng

Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.

Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng không bao giờ để mất niềm tin.

Chớ than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.

Bao giờ dân nổi can qua

Con vua thất thế lại ra quét chùa.

2.3. Ca dao hài hước châm biếm: Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, ca dao hài hước châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu hay những người đáng cười trong xã hội:

Ăn thì ăn những miếng ngon

Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.

Cái cò là cái là quăm

Mày hay đánh vợ tối nằm với ai

Cái cò là cái cò kì

Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.

Làm trai cho đáng nên trai

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

3.Nghệ thuật

Ca dao phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. Thể loại được dùng nhiều trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn. Mỗi bài ca dao thường có hai dòng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. Sức hấp dẫn ở ca dao là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thoát và ở lời ca dao giàu hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nói quá,... tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa:

Đôi ta thương mãi nhớ lâu

Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm.

Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

Đường xa thì mặc đường xa

Nhờ mình làm mối cho ta một người

Một người mười tám đôi mươi

Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình

Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa - bến nước - con đò; trúc - mai, con cò, chiếc cầu, ...

Cái cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về.

Cây đa cũ, bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.

Có thể nói ca dao dùng lời ăn tiếng nói của nhân dân để chuyển tải tâm tư, tình cảm của nhân dân.

III. Kết bài

Chúng ta đã đi qua hành trình ca dao Việt Nam đẹp đẽ, để rồi ca dao vẫn khắc dấu trong tâm hồn mỗi chúng ta. Phải biết yêu câu ca dao, thương lời ru của mẹ, hát những khúc dân ca chân chất, ngọt ngào để thêm yêu Tổ quốc mình, để vươn ra văn hoá toàn cầu mà giữ vững bản sắc dân tộc Việt.

Đặng Châu Anh
4 tháng 1 2017 lúc 21:59

Mở bài: Nêu định nghĩa chung về tục ngữ như
Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (Tự nhiên, lao động, sản xuất, xã hội), được nhân dân ta vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày đây là 1 thể loại văn học dân gian.
Thân bài :
Tục ngữ vô cùng phong phú,nó thường được hiểu theo hai nghĩa
+nghĩa đen:là nghĩa được hiểu theo cách thông thường dựa trong tục ngữ
+nghĩa bóng: là nghĩa rộng được rút ra từ nghĩa đen
- Vần: vần sát,vần cách
-Không vần: xuôi tai,không cân đối giữa các vế
-Nhịp:nhóm các cặp từ,đối từ,đối âm
-Ngắn gọn
-Quan hệ giữa các mệnh đề:tương hỗ,bổ túc,nhân quả,đối lập,..
-Từ phiếm định
Kết bài: Khẳng định vai trò của tục ngữ trong đời sống và nêu cảm nghĩ của mình.

Cách 2:

Các câu hỏi tương tự
Hoa Phương
Xem chi tiết
Kiều Oanh
Xem chi tiết
Mỹ Ngọc
Xem chi tiết
Vũ Anh Quân
Xem chi tiết
Trang Candytran
Xem chi tiết
Linh Thỉu năng
Xem chi tiết
Tsukino Usagi
Xem chi tiết
Ngọc Trâm
Xem chi tiết
Vinh Nguyễn12345678910
Xem chi tiết