Văn bản ngữ văn 8

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Vũ Trà My

Bài 1: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu chứng minh đoạn trích "Nước Đại Việt ta" có thể coi như là một bản tuyên ngôn độc lập.

Bài 2: Qua văn bản "Chiếu dời đô" và "Hịch tướng sĩ" của Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đã thể hiện được vị thế của bậc minh chủ, vừa có tầm nhìn xa trông rộng vừa đâu đáu nỗi niềm vì dân vì nước.Hãy viết 1 đoạn văn khoảng 10 - 12 câu chứng minh điều đó.

(P/S: Mk đang cần gấp. Help mk nha! Cảm ơn mọi người trước!)

Yen Nhi Trinh Nguyen
21 tháng 3 2019 lúc 21:22

Câu 1:

Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lậpSo với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.

Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.

Câu 2:

Trong lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đi qua bao thăng trầm và cuộc chiến không khoan nhượng. Viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc, không thể không nhắc tới công lao to lớn của những vị anh hùng như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn.

Vận mệnh của 1 quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào những người anh hùng, những người lãnh đạo dẫn đường chỉ lỗi. Trong lịch sử, Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn là những nhà lãnh đạo tài ba, sáng suốt, có tài chí lớn, có sách lược chiến đấu, cách điều binh tài tình.

Lý Công Uẩn thể hiện tầm nhìn sáng suốt của mình bằng cách phát hiện vị trí kinh đô mới khi đang ở cương vị người đứng đầu đất nước. Ông đã anh minh phát hiện, phân tích vị trí của kinh đô hiện tại không phù hợp với tình thế đất nước lúc bấy giờ. Lý Công Uẩn đã quan sát, lựa chọn vàquyết định rời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La, sau đó đổi tên là Thăng Long. Vài năm sau đó, kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mệnh giúp hai nhà Đinh, Tiền Lê củng cố lại chính quyền đất nước, đánh đuổi quân Tống xâm lược. Đến ngày nay, Thăng Long (Hoa Lư) khi ấy vẫn là thủ đô của đất nước, góp phần to lớn vào thúc đẩy kinh tế , xây dựng đời sống cho nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để giữ vững nền độc lập dân tộc của nước nhà.

Còn Trần Quốc Tuấn vốn là danh tướng đời Trần. Ông viếi Hịch tướng sĩ với mục đích khích lệ binh lính, nâng cao ý thức trách nhiệm và gợi cho người dân tình yêu quê hương đất nước. Lòng yêu nước thiết tha của người lãnh đạo đã chuyển hóa thành lòng căm thù mãnh liệt kẻ xâm lược, kẻ bán nước, tinh thần ấy lớn mạnh thành ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù đã xâm lược nước ta.

Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn chính là minh chứng lịch sử chứng minh vai trò, tầm quan trọng của những nhà lãnh đạo đối với vận mệnh đất nước. Họ là những người đứng đầu, ở vị trí dẫn dắt, đi đầu. Thời chiến tranh, loạn lạc, họ chính là người lãnh đạo những cuộc kháng chiến, đấu tranh, vạch ra sách lược, chiến lược, tìm kiếm con đường và giải pháp để giành thắng lợi. Nếu con đường họ đi sai, phương pháp có lỗ hổng, cuộc đấu tranh có thể bị đẩy vào bế tắc, thậm chí thất bại. Nếu không có chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, không có con đường cứu nước mà Người vượt khắp đại dương để tìm về dân tộc Việt Nam có lẽ sẽ không được sống cuộc sống tự do, hòa bình như hôm nay.

Thời bình, những người lãnh đạo lại giữ vai trò xây dựng và phát triển đất nước, làm thế nào để đưa đất nước đi lên, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Họ là những người có quyền quyết định nhiều hoạt động quan trọng của quốc gia. Nếu là người xuất sắc, vận mệnh quốc gia sẽ ngày càng tốt đẹp. Ngược lại, một sai lầm nhỏ của người lãnh đạo cũng có thể hủy hoại cả đất nước.

Hơn nữa, người đứng đầu bao giờ cũng có khả năng tập hợp, kết nối mọi người. Nếu người lãnh đạo có tiếng nói, có uy tín, mọi người sẽ tin tưởng và đi theo, cuối cùng sẽ tạo lên sức mạnh lớn. Ngược lại, khi có sự tranh cãi giữa người lãnh đạo, sự không phục thì rất nhiều khó khăn và rắc rối sẽ xuất hiện.

Có thể khẳng định, người lãnh đạo giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh đất nước. Lịch sử dân tộc ta có biết bao nhân vật đã tạo nên huyền thoại ở vai trò người lãnh đạo. Kế thừa truyền thống ấy, thế hệ mai sau đừng quên vị trí và nhiệm vụ của mình, phấn đấu trở thành người lãnh đạo thực sự của quốc gia.

Yen Nhi Trinh Nguyen
21 tháng 3 2019 lúc 21:27

Câu 1:

Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.

“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.

Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung.

Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cỡi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập

Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có”

Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.

Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chạt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.

Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.

Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.

Câu 2:

Trong lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đi qua bao thăng trầm và cuộc chiến không khoan nhượng. Viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc, không thể không nhắc tới công lao to lớn của những vị anh hùng như Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn.

Vận mệnh của 1 quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào những người anh hùng, những người lãnh đạo dẫn đường chỉ lỗi. Trong lịch sử, Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn là những nhà lãnh đạo tài ba, sáng suốt, có tài chí lớn, có sách lược chiến đấu, cách điều binh tài tình.

Lý Công Uẩn thể hiện tầm nhìn sáng suốt của mình bằng cách phát hiện vị trí kinh đô mới khi đang ở cương vị người đứng đầu đất nước. Ông đã anh minh phát hiện, phân tích vị trí của kinh đô hiện tại không phù hợp với tình thế đất nước lúc bấy giờ. Lý Công Uẩn đã quan sát, lựa chọn vàquyết định rời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La, sau đó đổi tên là Thăng Long. Vài năm sau đó, kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mệnh giúp hai nhà Đinh, Tiền Lê củng cố lại chính quyền đất nước, đánh đuổi quân Tống xâm lược. Đến ngày nay, Thăng Long (Hoa Lư) khi ấy vẫn là thủ đô của đất nước, góp phần to lớn vào thúc đẩy kinh tế , xây dựng đời sống cho nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để giữ vững nền độc lập dân tộc của nước nhà.

Còn Trần Quốc Tuấn vốn là danh tướng đời Trần. Ông viếi Hịch tướng sĩ với mục đích khích lệ binh lính, nâng cao ý thức trách nhiệm và gợi cho người dân tình yêu quê hương đất nước. Lòng yêu nước thiết tha của người lãnh đạo đã chuyển hóa thành lòng căm thù mãnh liệt kẻ xâm lược, kẻ bán nước, tinh thần ấy lớn mạnh thành ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù đã xâm lược nước ta.

Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn chính là minh chứng lịch sử chứng minh vai trò, tầm quan trọng của những nhà lãnh đạo đối với vận mệnh đất nước. Họ là những người đứng đầu, ở vị trí dẫn dắt, đi đầu. Thời chiến tranh, loạn lạc, họ chính là người lãnh đạo những cuộc kháng chiến, đấu tranh, vạch ra sách lược, chiến lược, tìm kiếm con đường và giải pháp để giành thắng lợi. Nếu con đường họ đi sai, phương pháp có lỗ hổng, cuộc đấu tranh có thể bị đẩy vào bế tắc, thậm chí thất bại. Nếu không có chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, không có con đường cứu nước mà Người vượt khắp đại dương để tìm về dân tộc Việt Nam có lẽ sẽ không được sống cuộc sống tự do, hòa bình như hôm nay.

Thời bình, những người lãnh đạo lại giữ vai trò xây dựng và phát triển đất nước, làm thế nào để đưa đất nước đi lên, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Họ là những người có quyền quyết định nhiều hoạt động quan trọng của quốc gia. Nếu là người xuất sắc, vận mệnh quốc gia sẽ ngày càng tốt đẹp. Ngược lại, một sai lầm nhỏ của người lãnh đạo cũng có thể hủy hoại cả đất nước.

Hơn nữa, người đứng đầu bao giờ cũng có khả năng tập hợp, kết nối mọi người. Nếu người lãnh đạo có tiếng nói, có uy tín, mọi người sẽ tin tưởng và đi theo, cuối cùng sẽ tạo lên sức mạnh lớn. Ngược lại, khi có sự tranh cãi giữa người lãnh đạo, sự không phục thì rất nhiều khó khăn và rắc rối sẽ xuất hiện.

Có thể khẳng định, người lãnh đạo giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với vận mệnh đất nước. Lịch sử dân tộc ta có biết bao nhân vật đã tạo nên huyền thoại ở vai trò người lãnh đạo. Kế thừa truyền thống ấy, thế hệ mai sau đừng quên vị trí và nhiệm vụ của mình, phấn đấu trở thành người lãnh đạo thực sự của quốc gia.


Các câu hỏi tương tự
Nm Duyên
Xem chi tiết
Xuân Trà
Xem chi tiết
Xuân Trà
Xem chi tiết
BaekYeol Aeri
Xem chi tiết
Ms 37: Phạm Minh Phúc
Xem chi tiết
Xuân Trà
Xem chi tiết
Vũ Trà My
Xem chi tiết
Xuân Trà
Xem chi tiết
Văn Ngọc Hà Anh
Xem chi tiết