Bài 3. Phân bố dân cư và các loại hình quần cư

Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài
Cô Bé Ngây Ngô

1.Hãy nêu vai trò ngành du lịch ở nước ta ?

2. nêu đặc điểm các dân tộc việt nam

3. Trình bày tình hình phát triển và phân bố các ngành sản xuất nông nghiệp ở nước ta

giúp dùm em đi ạ em cảm ơn trước

Thảo Phương
3 tháng 12 2017 lúc 14:16

1.Hãy nêu vai trò ngành du lịch ở nước ta ?

– Nhờ có các hoạt động vận tải thương mại mà các ngành kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp được cung cấp nguyên liệu, vật tư sản xuất; đồng thời sản phẩm của các ngành này cũng được tiêu thụ.
– Các hoạt động dịch vụ cũng tạo ra các mối liên hệ giữa các ngành sản xuất, các vùng trong nước và giữa nước ta với nước ngoài.
– Các ngành dịch vụ thu hút ngày càng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm, góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân và đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế.

2.

Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng. 54 dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm 86% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống, Sila, Pupéo, Rơmăm, Ơ đu, Brâu). Tuy có sự chênh lệch đáng kể về đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. 3.2. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước, giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói có nhau”. Từ mấy nghìn năm nay, từ khi bắt đầu hình thành nhà nước các dân tộc cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải liên kết nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền chặt- đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước. Đoàn kết là truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta. Từ cuộc đời tối tăm dưới ách áp bức của thực dân, ăn đói, mặc rách, mù chữ..., đồng bào các dân tộc đã đứng lên đi theo ánh sáng cách mạng, kề vai sát cánh, chia ngọt sẻ bùi cùng các dân tộc cùng nhau chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. 3.3. Dân tộc Việt Nam cư trú phân tán, xen kẻ nhau. Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. - Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. - Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản mường. Bản Phiêng Luông có người Dao là đông nhất với 32 hộ, người Tày 9 hộ, 17 hộ người Mông, 4 hộ người Sán Chí, 2 hộ người Nùng và 1 hộ người Kinh. Cách đây ba, bốn chục năm chỉ có những ngôi nhà của người Êđê, Bana, Giarai, Xơđăng, Cơho, Mơnông cư trú trên mảnh đất Tây Nguyên. Ngày nay, cùng với sự di dân đã xuất hiện thêm những ngôi nhà của dân tộc Kinh, Tày, Nùng, và một số dân tộc ít người ở đây. - Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, tạo điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong cùng một địa phương giúp các dân tộc ngày một hiểu nhau hơn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế- văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc. 3.4. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đều nhau. Do điều kiện tự nhiên nên sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt. Đầu tiên là kỹ thuật canh tác: Bà con dân tộc miền núi thì kỹ thuật canh tác thô sơ, chủ yếu dựa vào sức người là chính, địa hình đồi núi khó áp dụng những tiến bộ khoa học kỉ thuật. Cư dân ở khu vực đồng bằng đã vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra năng suất lao động cao. Trong khi đó ở khu vực thành thị nhiều người có cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Giữa nhiều vùng còn có sự chênh lệch thể hiện ở: Đường giao thông, phương tiện, dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục… Tuy nhiên Đảng ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực, tỉnh thành trong cả nước. 3.5. Dân tộc Việt Nam có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Từ cơ tầng văn hoá Đông Nam Á thời tối cổ, thời tiền sử trên dải đất Việt Nam hiện nay xuất hiện ba nền văn hoá: Đông Sơn (ở châu thổ Bắc Bộ), Sa Huỳnh (Trung Bộ), Đồng Nai (Nam Bộ). Thời sơ sử và sang thiên niên kỷ đầu Công nguyên, lịch sử đã đưa ba nền văn hoá này đến ba số phận khác nhau; ở châu thổ Bắc Bộ bị sự thống trị của phong kiến Trung Quốc hơn 1000 năm, ở duyên hải Trung Bộ là văn hoá Champa, ở Nam Bộ là văn hoá Óc Eo, để rồi hoà trộn trong nền văn hoá Việt Nam, tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất. v Nền văn hóa Đông Sơn: Ra đời là kết quả của sự hội tụ của nhiều văn hoá rực rỡ trước văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau, trong quá trình chiếm lĩnh vùng đồng bằng các con sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu là lưu vực sông Hồng. v Nền văn hóa Sa Huỳnh: là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng 1000 năm TCN đến cuối thế kỷ thứ II. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với: Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo, tạo thành tam giác văn hóa Việt. v Văn hóa Đồng Nai: phát triển trong thiên niên kỷ I,II trước Công Nguyên đã được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. © Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á: ○ Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường: Gồm các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt. ○ Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khơ Mú, Kháng, Mảng, Xinh Mun, Bru Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Co, Hrê, Gie Triêng, Ba Na, Xơ Đăng, Brâu, Rơ Măm, Mnông, Mạ, Cơ Ho, Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Ơ Đu. ○ Nhóm ngôn ngữ Tày- Thái: Gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Giấy, Lào, Lự, Bố Y. ○ Nhóm ngôn ngữ H'mông- Dao: Gồm các dân tộc H’mông, Dao, Pà Thẻn. ○ Nhóm ngôn ngữ Ka Đai: Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha. © Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo: ○ Nhóm ngôn ngữ Malaio Polinexia: Gồm các dân tộc Chăm, Chu Ru, Gia Rai, Ê Đê, Raglai. © Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng: ○ Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Gồm các tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La. ○ Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu. Bên cạnh sự đa dạng về ngôn ngữ, thì mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán mang những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. - Người Chăm ở duyên hải miền Trung lại có những đền tháp, tác phẩm điêu khắc đá, những bia ký trên đá. - Người Khơme Nam Bộ: có một kho tàng văn học Phật giáo, nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc Phật giáo khá lớn, có những ngôi chùa là một trung tâm văn hoá và nhiều lễ hội độc đáo. - Người Tày- Thái: ở vùng núi cao phía Bắc lại có những nếp nhà sàn, có một kho tàng văn học dân gian đa dạng… - Mặc dù có những sắc thái riêng nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại có những yếu tố rất chung về văn hoá. Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. 3.6. Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã trưởng thành rất sớm và trở thành một quốc gia độc lập thống nhất yêu hoà bình. Nhìn lại con đường lịch sử đã qua, trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải bao lần chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã chiến thắng một cách oanh liệt. Đó là một nét nổi bật của lịch sử và con người ViệtNam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn nhất của dân tộc ta. - Vị trí địa lý: Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 330.991 km2. Với đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, phía Tây Bắc tiếp giáp với Lào và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái Lan; phía Đông và Nam giáp biển Đông. Với vị thế đặc biệt này, Việt Nam trở thành mảnh đất mầu mỡ khiến các thế lực xâm lăng muốn chiếm đoạt. - Nhưng với sự lảnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã anh dũng, bền gan, vững chí đánh thắng kẻ thù xâm lược qua nhiều thế hệ. Vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho cả dân tộc, trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào và toàn thế giới: “…Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Ä Như vậy, dân tộc Việt Nam đã trải qua thời gian dài dựng nước và giữ nước; trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giành lấy độc lập dân tộc. Đó là bằng chứng về một tinh thần yêu nước, sự đoàn kết dân tộc, sự quả cảm của những con người anh hùng, cùng nhau hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, không còn chiến tranh, một dân tộc hoà bình, thống nhất. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2010, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành Công viên Hòa Bình, tại Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội. Công viên nhằm nhấn mạnh thông điệp “chúng tôi muốn thế giới này mãi mãi hoà bình”. Năm 2000, cùng với 4 thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là Thành phố duy nhất đại diện cho Châu Á nhận giải thưởng “Thành phố vì Hòa bình” của UNESCO trao tặng. Năm 2001, Thành phố đã phê duyệt chủ trương xây dựng một công viên mang biểu tượng của Thành phố Thủ đô- Thành phố vì hòa bình- Công viên Hòa Bình. Trong công viên, Tượng đài Hòa Bình là hạt nhân chính được đúc bằng đồng nặng khoảng 20 tấn, cao 7,2m đặt trên đài đế cao 22,8m. 3.7. Các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Theo số liệu tổng điều tra dân số, tính đến 0 giờ ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người. Dân số Việt Namgồm 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, Hmông, người Dao, Giarai, Êđê, Chăm, Sán Dìu. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rmăm chỉ có trên 300 người. v Dân tộc Tày: sống chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang… Theo thống kê gần đây, người Tày có khoảng 1 triệu 700 ngàn người. Đây là dân tộc có số dân đông nhất sau người Kinh trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. v Dân tộc Thái: (520.000), cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An... v Dân tộc Mường: (914.600), sống chủ yếu tại tỉnh Hòa Bình, các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa một số huyện miền núi của Nghệ An. v Người Hoa: (450.000), người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam, sống tập trung đông nhất (50%) tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh, 50% còn lại sinh sống phân tác ở các tỉnh thành trên toàn quốc, phần nhiều tại các tỉnh miền Tây Việt Nam. v Người Khmer: (447.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer, sống chủ yếu tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. v Dân tộc Nùng: (353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. v H'Mông (479.000), hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... v Dao (237.000), cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. v Giarai (121.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và phía Bắc tỉnh Đắc Lắc. v Êđê (97.000), thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, cư trú tập trung ở Đắc Lắc, phía Nam Gia Lai và phía Tây hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên. v Những dân tộc còn lại có dân số dưới 90.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, ƠĐu và Rmăm chỉ có khoảng vài trăm người. - Như vậy, các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ trong dân số cả nước (13,8%) nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã hình thành và phát triển bền vững. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Từ các đặc điểm trên, càng thấy rõ được đậm nét tinh thần ấy. Biết đoàn kết dân tộc, sẽ là sức mạnh mang lại những thắng lợi to lớn hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước.

3.

– Gồm: Lúa và hoa màu (ngô, khoai, sắn….)
– Lúa vẫn là cây trồng chính, chiếm vị trí quan trọng và sản lượng cao nhất trong trồng cây lương thực
– Năng suất lúa tăng gấp 2 từ 20,8 tạ/ha/năm (1980) lên 45,9 tạ/ha/năm (2002)
– Diện tích cũng tăng từ 5,6 triệu ha lên 7,5 triệu ha (2002)
– Sản lượng tăng gấp 3 lần: từ 11,6 triệu tấn (1980) lên 34,4 triệu tấn (2002)
– Bình quân lương thực tăng trung bình 2 lần.
– Đồng bằng sông Cửu long, sông Hồng, Duyên hải Trung Bộ…
-> Ngành trồng cây lương thực tăng trưởng liên tục trong đó đặc biệt là cây lúa.

10A5-39-Nguyễn Mỹ Quỳnh...
7 tháng 11 2021 lúc 10:09

Câu 1: Du lịch nước ta có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế quốc gia, trở thành nghành kinh tế mũi nhọn của rất nhiều đất nước. Du lịch giúp cho con người nâng cao hiểu biết, nâng cao chất lượng các mối quan hệ xã hội , giúp mang lại cuộc sống hạnh phúc và thành công


Các câu hỏi tương tự
Nguyễn Lê Nhật Anh
Xem chi tiết
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Xem chi tiết
 ✪ B ✪ ả ✪ o  ✪
Xem chi tiết
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Đào Chí Thành
Xem chi tiết
vothu huyen
Xem chi tiết
Trang Trang
Xem chi tiết