Trước hết, hai bài thơ đều được làm ở thể tứ tuyệt và có cấu trúc khá giống nhau, cùng thiên về biểu ý. Phần thứ nhất của bãi thơ nêu vắn tắt tình hình thời cuộc. Phần thứ hai thể hiện tinh thần ý chí của quân và dân trong cả nước. Trong bài thơ “Sông núi nước Nam”, tình hình thời cuộc đó là:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?"
Bài thơ ra đời trong cuộc chiến tranh chống xâm lược nhà Tống. Phần dầu của bài thơ khẳng định chủ quyền của đất nước thông qua một lí do vô cùng giản dị: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Trong nguyên văn chữ Hán, tác giả đã mạnh dạn dùng chữ “đế” để chỉ nhà vua nước Nam ta “Nam đế” Điều đó khẳng định sự bình quyền giữa hai dân tộc, hai vị hoàng đó. Chủ quyền đất nước đã được lịch sử và trời thần khẳng định từ lâu: “Rành rành đinh phận ở sách trời”. Vua Tống vẫn tự xưng là “thiên tử” nên trong câu thơ của Lí Thường Kiệt, ông đã mượn đến cái uy nghiêm của "thiên thư" - “sách trời” để bảo vệ vững chắc cơ sở pháp lí cho sự tồn tại của biên giới lãnh thổ. Khẳng định chủ quyền của dân tộc, bài thơ còn phản ánh một thực tế khác: quân Tống đang âm mưu xâm lược nước ta, đang lăm le giẫm đạp lên uy nghiêm của trời đất: “lũ giặc sang xâm phạm”. Trong bai thơ “Phò giá về kinh”, tính chất biểu ý lại nằm ở hai câu thơ đầu:
"Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử".
Bài thơ ra đời sau chiến thắng cuộc xâm lược lần thứ hai của quân Mông - Nguyên. Hai câu thơ đầu phản ánh chiến thắng lẫy lừng của dân tộc trong cuộc đại chiến khốc liệt này. Trong nguyên văn chữ Hán, tác giả dùng hai từ vô cùng mạnh mẽ, đầy tự hào là “đoạt”, “cầm”. Hai động từ ấy được đặt lên đầu câu khẳng định sức mạnh của quân dân ta đồng thời tô đậm sư thảm bại của quân thù.
Phần thứ hai của mỗi bài tiếp theo mạch cảm hứng của phần trước, thể hiện ý chí, tinh thần của quân dân trong tình hình mới. Trong “Sông núi nước Nam” đó là tinh thần, ý chí đánh giặc quật cường:
“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.
Câu hỏi “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?” thể hiện sự coi thường, coi khinh hành động trái lòng người, nghịch ý trời của kẻ xâm lược. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng đã khẳng định quyết tâm và sức mạnh quật cường của dân tộc ta trước cường bạo: “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Có điều đó bởi chúng sẽ bị chặn đánh bằng sức mạnh của cả người và trời cộng gộp.
Ra đời sau những thắng lợi huy hoàng của đất nước, phần thứ hai của bài thơ “Phò giá về kinh” là lời động viên xây dựng, phát triển đất nước trong cảnh thái bình, đồng thời khẳng định sự bền vững muôn đời của đất nước:
“Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”.
Sau chiến tranh, nhiệm vụ hàng đầu của một quốc gia là khỏi phục lại kinh tế, ổn định lại chính trị, chấn hưng lại văn hóa. Lời thơ chính là lời tự nhủ, tự động viên “Thái bình nên gắng sức”. Làm được như vậy thì đất nước sẽ được trường tồn phát triển: “Non nước ấy ngàn thu”.
Như vậy, xét về khía cạnh nội dung, cả hai bài thơ đều thể hiện khí phách kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc. về hình thức, cá hai bài đều ngắn gọn, súc tích mà mạnh mẽ, cô đúc mà thâm trầm; cảm xúc hoà trong ý tưởng, được thể hiện qua ý tưởng.
Không hẹn mà gặp, hai bài thơ hai thời đại, hai tác giả, hai hoàn cảnh nhưng chung nhau một đất nước, một tấm lòng đối với giang sơn nên cùng giống nhau một ý chí, một khát vọng hòa bình xây dựng đất nước thanh bình no ấm. Sông núi nước Nam (“Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt) và Phò giá về kinh (“Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải) và nhiều bài thơ cùng thi đề đất nước sau này đã tạo nên một mạch tư tưởng chủ đạo xuyên suốt thơ ca Việt Nam mấy mươi thế kỉ sau này: mạch cảm hứng yêu nước.
Trong nền văn học trung đại có rất nhiều bài thơ hay và đặc sắc. Trong đó, bài thơ " Nam quốc sơn hà " của tác giả Lí Thường Kiệt và " Phò giá về kinh " của Trần Quang Khải là bài thơ tiêu biểu trong nền thơ phong phú. Cả 2 bài thơ đều nói lên ý chí quyết tâm bào vệ đất nước trước mọi kẻ thù xâm lược và khát vọng đất nước được thái bình. Có ý kiến cho rằng : Tuy ra đời ở 2 thời đại khác nhau nhưng hai bài thơ lại có những điểm tương đồng .
Bài thơ " Sông núi nước Nam " được ra đời trong hoàn cảnh : Năm 1077, quân Tống do Quách Qùy sang xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bỗng một đêm, quân giặc chợt nghe từ trong đền thờ 2 anh em Trương Hống, Trương Hát - hai vị tướng đánh giỏi giặc của Triệu Quang Phục, được tôn lên làm thần sông Như Nguyệt vang lên. Vì vậy, bài thơ có tên gọi là " bài thơ thần ".
Bài thơ " Phò giá về kinh " được sáng tác khi Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Khánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long ngay sau chiến thắng của Chương Dương, Hàm Tử. Cả 2 bài thơ tuy khác nhau về thời điểm sáng tác nhưng chúng lại mang những nét tương đồng bởi tình yêu nước thiết tha và nồng nàn. Đó chính là sự khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc và tinh thần bất khuất đấu tranh của dân ta trước mọi kẻ thù xâm lược. Không chỉ thế, cả 2 bài thơ đều nói lên khát vọng đất nước được ấm no, hạnh phúc và tồn vinh muôn đời.
Bài thơ " Sông núi nước Nam " của Lí Thường kiệt được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt . Trong đó các câu 1,2 hoặc câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Mở đầu của bài là 2 câu thơ đanh thép, dõng dạc :
" Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư ."
" Nam đế " có nghĩa là vua của nước Nam. Trong chữ Hán cũng có chữ " Vương " tức là vua. Nhưng " đế" ở đây cao hơn " Vương " vì dùng chữ " đế " để tỏ thái độ ngang hàng với nước Trung Hoa, ở Trung Hoa gọi vua là " đế " thì ở nước ta cũng vậy . Vì thế, câu đầu của bài thơ muốn khẳng định chủ quyền lãnh thổ : Đất nước, của cải là của người Nam vì nhân dân ta đã cất công xây dựng từ bao đời nay. Và điều đó đã có sách trời phân định rõ ràng, dứt khoát. Nếu 2 câu đầu nói lên chủ quyền lãnh thổ của đất nước thì 2 câu sau là một lời cảnh cáo, đe dọa tới những kẻ dám xâm phạm đến nền độc lập của nước ta :
" Như hà - cớ sao " là một câu để hỏi tội bọn chúng lí do gì dám xâm lược đến nước ta. là một lời nói khinh bỉ, sỉ nhục trước những kẻ gian ác, bán nước , bán dân. Chính vì nhờ vào tinh thần đoàn kết, ý chí gây dựng nên non sông tươi đẹp, nhân dân ta đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy. Chính vì điều đó, Lí Thường Kiệt đã khẳng định " Nếu chúng nó xâm phạm đến lãnh thổ đất nước thì hậu quả của chúng là việc chuốc lấy bại vong ". Từ đấy, nhân dân ta đã nói lên những khát vọng về một tương lai tươi sáng, hòa bình và thịnh vượng.
Bài thơ " Phò giá về kinh " của Trần Quang Khải được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật. Hai câu đầu của bài thơ :
" Đoạt sáo chương dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan ."
" Chương Dương " là bên sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. " Còn " Hàm Tử " là một địa điểm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khóa Châu, tỉnh Hưng Yên. Và đó cũng chính là 2 trận chiến khốc liệt, hào hùng nhất trong trận chống quân Mông - Nguyên do sự chỉ huy tài tình của Trần Quang Khải. Với hình thức dồn nén cảm xúc : vui mừng, tự hào vào bên trong ý tưởng đã làm cho bài thơ như toát lên khí chất của anh hùng, của hào khí chiến thắng. Hai câu cuối bài thơ khép lại với những tâm tư, khát vọng đất nước được phồn vinh muôn đời :
" Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san. "
" Thái bình " ở đây có nghĩa là rất yên ổn, nơi không có chiến tranh và được sống ấm no, hạnh phúc. " Tu trí lực - nên cố gắng " để đất nước mãi mãi thịnh trị. Từ đó , 2 câu cuối của bài muốn gửi gắm một lời nhắn nhủ về việc xây dựng đất nước phát triển và đề cao khát vọng của nhân dân được thoát khỏi cảnh nghèo khổ mà sống trong thái bình.
Qua 2 bài thơ " Nam quốc sơn hà " và " Phò giá về kinh " đã nói lên phần nào ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước trước mọi kẻ thù xâm lược và khao khát được thái bình. Mỗi chúng ta cần phải biết bảo vệ giữ gìn và xây dựng đất nước giàu mạnh .
Chúc bạn học tốt!
Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm ông cha ta đã để lại biết bao nhiêu bài thơ bất hủ khẳng định được chủ quyền và nền độc lập của nhân dân ta. Chính vì thế mà bọn xâm lược có là ai đi chăng nữa thì nhân dân ta vẫn đoàn kết kiên cường chống lại chúng. Cùng ra đời trong cùng một thời điểm hai bài thơ Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh tuy có những nét khác sau nhưng lại cũng có những nét tương đồng nhất định.
Trước hết cả hai bài thơ đều thể hiện một tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường và bất khuất. bất cứ loại giặc nào, nước lớn hay nước nhỏ thì đều sẽ phải rút kiếm lui binh mà chạy về nước mà thôi.
Và đúng là như vậy không chỉ là bài thơ mà ngay cả lịch sử cũng đã chứng minh được quân và dân ta đã đánh cho lũ giặc cướp nước kia tơi bời khiến cho chúng chạy không kịp nữa, hồn bay phách lạc mà xéo lên nhau chạy thôi. Câu thơ thể hiện ý chí quyết tâm đánh bại quân xâm lược bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
Phò giá về kinh cũng thể hiện rõ nét ý chí kiến cường và khẳng định sự thất bại của bọn xâm lược ấy qua hai câu thơ:
“Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù. ”Các địa danh được gợi lên rất cụ thể để từ đó cho thấy được nhân dân ta đã đánh chúng tơi bời như thế nào. Đó chính là kết cục cho một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Những con người nhỏ bé đã đứng lên với ý chí của mình cướp giáo giặc ở Chương Dương, bắt quân thù ở Hàm Tử.
Nét tương đồng thứ hai chính chủ quyền và độc lập của nhân dân ta vốn từ xưa đã có bây giờ bọn giặc lại dám sang xâm lược một cách trắng trợn như thế là không thể được. cả hai bài thơ đều nói về chủ quyền ấy tuy nhiên bài Nam quốc sơn hà nói rõ hơn:
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời. ”
Đó là sách trời đã định sẵn chủ quyền ấy. Có thể nói về phần này thì câu thơ có phần nghiêng về phía thần linh nhiều hơn. Nhưng dù sao đi nữa thì chúng ta đều biết rằng tác giả nói như thế để khẳng định chủ quyền của dân tộc mình.
Hay trong phò giá về kinh cũng thế, hai câu thơ cuối bài cũng thể hiện chủ quyền dân tộc:
“Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu”
Qua chữ “non nước ngàn thu” như muốn thể hiện sự lâu bền của đất nước có từ xa xưa rồi. Và cho đến ngày nay thì nó vẫn thế cho nên nếu xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ dốc hết sức mình để giữ vững nền độc lập ấy.
Qua đây ta thấy hai bài thơ trên đều có những nét tương đồng nhất định. Đó chính là việc khẳng định và ý chí quyết tâm chống lại bọn xâm lược để bảo vệ đất nước ta. Đồng thời còn một nét tương đồng mà ta cần phải biết đến nữa đó chính là lòng yêu nước của Trần Quang khải và Lý Thường Kiệt.