Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Hải Dương , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 0
Số lượng câu trả lời 12
Điểm GP 1
Điểm SP 8

Người theo dõi (0)

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất, buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước.
Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời. Nhờ đi biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn, nhưng họ vẫn tưởng Mặt Trời chuyển động quanh Trái Đất. Tuy nhiên, họ đã biết nếu tính mỗi vòng như thế là 360 ngày thì không chính xác. Về sau, người Rô-ma đã tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4 nên họ định một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Song, như thế so với thực tế vẫn bị chậm một ít. Dù sao, phép tính lịch của người Rô-ma cổ đại đã rất gần với những hiểu biết ngày nay

Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu ; khả năng phổ biến bị hạn chế. Cuộc sống “bôn ba’' trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra một thứ chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng phải có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người.

Hệ thống chữ cái của người Hi Lạp và người Rô-ma đã ra đời từ đó. Hệ chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B. c... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay.

Họ cũng có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các đề mục lớn, gọi là “số La Mã”.

Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.

b) Sự ra đời của khoa học

Nhữns hiểu biết khoa học thực ra đã có từ hàng nghìn nãm trước, từ thời cổ đại phương Đông. Nhưng phải đến thời cổ đại Hi Lạp và Rô-ma, những hiểu biết đó mới thực sự trở thành khoa học.

Với người Hi Lạp. Toán học đã vượt lên trên việc ghi chép và giải các bài riêng biệt. Những nhà toán học mà tên tuổi vẫn còn lại đến nay, đã để lại những định lí, định đề có giá trị khái quát khá cao.

Định lí nổi tiếng trong Hình học của Ta-lét, những cống hiến của trường phái Pi-ta-go về tính chất của các số nguyên và định lí về các canh của tam giác vuông cùng với tiên đề về đường thẳng song song của ơ-clít,... sau nhiều thế kỉ vẫn là những kiến thức cơ sở của Toán học.

c) Văn học

Trước người Hi Lạp cổ đại, ở Ai Cập và Lưỡng Hà mới chỉ có văn học dân gian. Đó là những bài thơ, truyện huyền thoại được truyền miệng từ người này qua người khác rồi mới ghi lại.

Ở Hi Lạp, sau các anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là I-li-át và ố-đi-xê, đã xuất hiện những nhà vãn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ để lại vẫn còn nguyên giá trị độc đáo cho đến ngày nay. Các nhà văn đó chủ yếu là những nhà biên kịch và các tác phẩm của họ là những kịch bản ; bởi vì thời ấy, kịch (có kèm theo hát) là hình thức nghệ thuật dễ phổ biến nhất và được ưa chuộng nhất.

Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế cùa văn học - nghệ thuật Hi Lạp. Tuy nhiên, dựa trên một nền kinh tế phát triển cao, ở thời hưng thịnh của Rô-ma cũng đã xuất hiện những nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xạ Viếc-gin v.v..

d) Nghệ thuật

Người Hi Lạp cổ đại đã để lại rất nhiều tượng và đền đài đạt tới trình độ tuyệt mĩ.

Đó là những tượng nhỏ, tượng bán thân vốn được dựng ở các quảng trường. Lại có những tượng thần lớn dựng ở đến, như tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, hoặc các tác phẩm điêu khắc như Người lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ Mi-iô v.v...

Rô-ma có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu... oai nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực, nhưng không tinh tế, tươi tắn, mềm mại, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp.

Câu trả lời:

Bác Hồ - hai tiếng thật thiêng liêng và gần gũi với mỗi con người chúng ta. Bác Hồ là kết tinh của tâm hồn dân tộc, là đài sen tỏa ngát Làng Sen. Là một vị lãnh tụ nhưng Bác luôn coi khinh sự xa hoa, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch, tao nhã, giản dị, luôn một lòng một dạ sống vì nhân dân, đặt quyền lợi của nhân dân lên cao nhất. Cuộc đời Người lung linh, huyền ảo như những trang huyền thoại. Câu chuyện “Hỡi ai bưng bát cơm đầy” thể hiện khá sinh động về tình yêu thương con người của Bác. Câu chuyện xảy ra khi Bác 70 tuổi.

Vào một buổi sáng Hè năm 1960, sau khi dự Đại hội Đoàn kết chống hạn tại Ứng Hòa - Mỹ Đức xong, Bác ra cánh đồng thôn Thái Bình thăm nông dân chống hạn.

Những năm ấy, vì hệ thống mương máng thủy lợi chưa có là bao nên bà con nông dân rất vất vả, nắng quá thì hạn, mưa nhiều thì úng. Đời sống của hàng triệu nông dân chỉ trông chờ ở đồng ruộng, thật bấp bênh.

Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn trên đầu gối, khăn khoác trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.

Mới mười giờ mà trời nắng như đổ lửa, những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã như tắm tràn xuống mắt giàn giụa, tràn vào miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh, mặc dầu đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gồ đất một các nhẹ nhàng như một lão nông thực thụ. Đến đầu một con mương, đồng chí Chủ tịch tỉnh Hà Đông thấy bờ mương hẹp, khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Đến chỗ một bờ mương bị xẻ ra tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch tỉnh chạy lên định dắt Bác, chưa kịp thì Bác đã nhảy phắt qua hố và rẽ sang bên kia. Những người đi theo sau, người thì nhảy qua được, người thì phải đi men xuống ruộng để qua.

Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại, vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên chừng 14,15 tuổi len đến bên Bác, đưa tay lên vuốt râu Bác. Bác thân mật thăm hỏi mọi người, bắt tay bà con, rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:

Thuở nhỏ, đã nhiều năm, tôi sống với bà con làng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu cơ cực của bà con khi trời hạn hán. Bây giờ, chúng ta có chính quyền, bà con đã làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai, phải cùng nhau chống hạn, cứu lúa.

Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to.

Sau đó, Bác lên đạp guồng nước cùng với một bác nông dân ngoài 50 tuổi để bác nông dân đỡ vất vả và được nhiều nước. Bác căn dặn chính quyền thôn, xã tích cực huy động bà con nghề mộc, xẻ gỗ để đóng guồng.

Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện Bác đều trả lời thân mật dễ hiểu; trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:

“Hỡi ai bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy tay chào tạm biệt.

Câu chuyện trên là bài học lớn về tình thương yêu con người nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng. Người nông dân quanh năm vất vả, tay lấm chân bùn, một nắng hai sương chống chọi với thiên tai để làm ra hạt gạo sẻ chia với chiến trường miền Nam khốc liệt. Cùng đổ mồ hôi với người nông dân khi hạn hán mới quý hạt gạo, củ khoai; mới xót lòng khi bão lũ ập đến cướp đi thành quả lao động vất vả của người dân trên ruộng đồng.

Bác là thế! Ngay sau khi giành được chính quyền, tuy bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt, mà còn trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa phương tham gia "chống trời" cùng nhân dân. Lần Bác về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân, nghe tin Bác về các đồng chí cán bộ Tỉnh tổ chức đón Bác long trọng. Bác không hài lòng, Bác phê bình ngay: "Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp". Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự, Người đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, xắn quần, xắn tay áo xuống cùng đào đất với bà con để lại phía sau các "quan cách mạng" trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ thẹn trước dân chúng; cuối cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với bà con theo gương Bác.

Qua câu chuyện trên mỗi người chúng ta càng thấm thía và nhận thức sâu sắc hơn về đức tính giản dị, không ngại khó, ngại khổ, gần gũi gắn bó với nhân dân, cảm thông và chia sẻ sâu sắc với nỗi cơ cực của người nông dân. Hình ảnh Bác quần xắn trên đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm nông dân, cùng đạp guồng nước với người nông dân, chỉ bảo ân cần cho người dân và chỉ đạo chính quyền địa phương, các ngành chức năng giải quyết những khó khăn, bất cập của người dân một cách hiệu quả… Tất cả những điều đó đã thể hiện một nhân cách lớn: Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người.

Những phẩm chất tốt đẹp của Người còn sống mãi với thời gian và tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là niềm tin, là động lực để chúng ta nhận thức rõ hơn về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh