Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 5
Số lượng câu trả lời 510
Điểm GP 40
Điểm SP 433

Người theo dõi (26)

Đang theo dõi (1)

Nguyễn Bảo Anh

Câu trả lời:

Bạn tham khảo nha:

   Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.

   Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.

    Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:

 

                       "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
                        Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
                        Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
                       ( Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)

   Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.

   Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm sa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.

 

   Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.

   Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.

   Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.

Câu trả lời:

Bạn tham khảo nha:

   "Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi, ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời,...", lời bài hát thay cho lời mời gọi du khách đến với mảnh đất hình chữ S tươi đẹp, với những con người cần cù, chất phác và với những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến ngôi chùa Bái Đính với những nét kiến trúc vô cùng độc đáo, thu hút không chỉ khách du lịch trong nước mà còn cả du khách nước ngoài.

 

   Về với Ninh Bình, mảnh đất cố đô xưa giàu truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam ta, ngoài danh thắng cố đô Hoa Lư, quần thể Tràng An, chúng ta không thể không nhắc đến chùa Bái Đính, là một trong số những ngôi chùa, khu du lịch tâm linh lớn nhất của cả nước. Chùa Bái Đính tọa lạc tại xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, Ninh Bình, cách cố đô Hoa Lư 3km về phía Tây, cách thành phố Ninh Bình gần 20 cây số và Hà Nội khoảng 97 km. Từ thủ đô Hà Nội, bạn có thể lựa chọn hai cách di chuyển phổ biến. Đi bằng ô tô theo đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ, tiếp tục đi 35 cây số, tới cầu Giẽ, đi thẳng tiếp qua cầu, theo biển chỉ dẫn là đến được Bái Đính. Đi bằng xe máy, từ Hà Nội, men theo đường Giải Phóng, qua quốc lộ 1 cũ, đi qua Thường Tín, đến Cầu Giẽ rẽ trái theo hướng quốc lộ về Hà Nam, sau đó tiếp tục đi thẳng khoảng 15 cây số nữa, gặp biển chỉ dẫn rẽ sang Ninh Bình, đi thêm khoảng 35km là tới thành phố Ninh Bình, từ Ninh Bình đi tiếp gần 15km nữa là đến chùa Bái Đính. Và dù là di chuyển bằng phương tiện nào, bạn cũng có thể tự mình chiêm ngưỡng cảnh núi non hùng vĩ, trùng điệp, là sự kết hợp hoàn hảo giữa mây trời, non nước và không khí vô cùng thoáng đãng, yên tĩnh, thanh tịnh của mảnh đất nơi đây.

   Chùa Bái Đính cổ có lịch sử hình thành khá lâu đời. Theo sử sách lưu truyền lại, hơn 1000 năm trước, khi Ninh Bình có ba triều đại phong kiến nối tiếp: Đinh, Tiền Lê, Lý trị vì; các triều đại đều suy tôn Phật giáo là Quốc giáo nên cho xây dựng nhiều ngôi chùa tại đây, trong đó có chùa Bái Đính nằm trên núi Tràng An. Câu chuyện xây dựng chùa bắt nguồn từ việc dưới thời Lý, một vị Thiền sư là Nguyễn Minh Không khi đi tìm vị thuốc quý chữa bệnh cho Hoàng thái tử Dương Hoán, trên đường về, ngài đã phát hiện ra hai hang động đẹp nằm trên đỉnh núi cao. Bằng cảm quan thần Phật, sau khi chữa khỏi bệnh cho Thái tử, ngài được vua phong chức cao nhưng đã từ chối, xin vua về ngọn núi đã tìm ra cây thuốc để xây chùa thờ Phật để tạ ơn trời Phật. Và ngôi chùa Bái Đính được xây dựng từ đó. Theo dân gian, tên Bái Đính được chiết tự: Bái trong chữ lễ bái, Đính là đỉnh, tên Bái Đính có nghĩa là cúng bái thần Phật ở nơi cao nhất.

 

   Khu du lịch tâm linh Bái Đính ngày nay bao gồm chùa Bái Đính cổ và chùa Bái Đính mới được xây dựng năm 2003, trên sườn núi nằm giữa thung lũng bao quanh là hồ và núi đá. Chúng ta sẽ cùng khám phá từng khu chùa Bái Đính để tìm hiểu những đặc điểm kiến trúc riêng của quần thể chùa lớn nhất Việt Nam này. Đầu tiên là chùa Bái Đính cổ, nằm trên đỉnh núi yên tĩnh, là nơi hội tụ đầy đủ yếu tố địa linh nhân kiệt: Đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Chùa gồm nhà Tiền Đường ở giữa; bên phải là Hang Sáng thờ Phật, đền thờ thần Cao Sơn; bên trái là đền thờ thánh Nguyễn và Động Tối, với những nét chạm trổ mang đậm kiến trúc thời Lý. Tiếp đến, cách chùa cổ về phía Nam khoảng 800 mét là tới với điện Tam Bảo của chùa Bái Đính mới. Chùa có diện tích khoảng 80 ha, nằm về phía Tây của cố đô với kiến trúc tiêu biểu bao gồm: Điện Tam Thế, điện Quan Âm, Pháp Chủ, Tháp Chuông, Bảo Tháp,... với những mái vòm nâu sẫm cong vút như hình đuôi chim phượng mang đậm kiến trúc đình chùa Việt Nam.

   Các khu chính đều được xây dựng với phần đỉnh mái có chiều cao từ 14 mét trở lên, cao nhất là đỉnh mái điện Tam thế với 34 mét. Dọc hành lang nối hai đầu Tam Quan là hành lang La Hán với 500 pho tượng bằng đá xanh, mỗi pho cao 2 mét rưỡi và nặng đến 4 tấn. Tháp chuông gồm 3 tầng mái, bên trong có quả chuông nặng tới 36 tấn, được xác nhận kỷ lục là lớn nhất Việt Nam, phía dưới chuông là chiếc trống đồng nặng khoảng 70 tấn. Tiếp đến là các điện chính thờ Phật gồm điện Quan Âm với 7 gian, gian giữa là tượng Phật bà bằng đồng lớn nhất Việt Nam; điện Pháp Chủ gồm 5 gian, gian giữa là tượng Phật Pháp Chủ bằng đồng lớn nhất Việt Nam; điện Tam Thế nằm trên quả đồi cao 76 mét so với mặt nước biển, bên trong là 3 pho tượng Tam thế Phật tượng trưng cho Quá khứ, Hiện tại, Tương lai. Ngoài ra, chùa Bái Đính mới còn nhiều kiến trúc khác độc đáo, tiêu biểu như: Tượng Phật Di Lặc nặng tới 80 tấn, cao 10 mét được xây dựng trên một ngọn đồi cao; tòa Bảo Tháp trưng bày xá lợi Phật được xây dựng theo phong cách kiến trúc Ấn Độ, xung quanh tường được trang trí bởi hàng nghìn bức tượng Phật khác nhau. Và để làm nên những chi tiết kiến trúc tinh xảo, cầu kì, khi xây dựng chùa Bái Đính đã hội tụ rất nhiều bàn tay tài hoa và khối óc của nhiều người thợ lành nghề từ khắp các làng nghề trên đất nước: Chạm bạc Đồng Xâm, chạm khắc đá Ninh Vân, làng mộc Phúc Lộc, đúc đồng Ý Yên, sơn mài Cát Đằng,... với các nguồn nguyên vật liệu phong phú của địa phương như đá xanh Ninh Bình, gạch men Bát Tràng,...

   Với những đặc điểm kiến trúc vô cùng độc đáo như vậy, chùa Bái Đính cổ đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa, cách mạng cấp quốc gia (năm 1997). Chùa tân Bái Đính đã được sách Kỷ lục Việt Nam và sách Kỷ lục Châu Á công nhận 9 kỷ lục: Tượng Phật bằng đồng lớn nhất châu Á; tượng Phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á; chuông đồng lớn nhất Việt Nam; Bảo Tháp cao nhất châu Á; khu chùa rộng nhất Việt Nam; khu chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á; khu chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam; khu chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam; khu chùa có nhiều cây bồ đề nhất Việt Nam. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa, chính trị quan trọng của đất nước thu hút các đoàn đại biểu, khách du lịch trong và ngoài nước. Lễ hội chính của chùa Bái Đính kéo dài từ ngày mùng 1 Tết đến hết tháng 3 hằng năm với những nghi lễ thờ Phật, tế lễ thần thanh tịnh, trang nghiêm và phần hội với những trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

 

   Thiên nhiên quả thật ưu ái khi ban tặng cho vùng đất Ninh Bình nói riêng và cho đất nước Việt Nam nói chung những danh lam thắng cảnh đẹp, độc đáo mà tiêu biểu là quần thể chùa Bái Đính. Bái Đính thật xứng đáng là viên ngọc quý, nơi hội tụ tinh hoa đất trời, là nơi du lịch tâm linh ý nghĩa thể hiện sự thành kính của con người với thần Phật. Là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, mỗi chúng ta cần ra sức học tập không ngừng và có trách nhiệm xây dựng quê hương, đất nước ngày một văn minh, hiện đại hơn.