Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Đắc Nông , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 13
Số lượng câu trả lời 119
Điểm GP 4
Điểm SP 67

Người theo dõi (12)

Bbang Gilgamesh
tran hai thanh
Herogaming_ MC
nam phạm

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Khi nhắc đến nhà thơ Viễn Phương, không ai là không nhắc đến bài thơ Viếng lăng Bác của ông. Bài thơ được viết năm 1976, khi lăng Bác vừa được hoàn thành, trong một lần nhà thơ đến thăm lăng. Bài thơ đã bộc lộ lòng kính yêu của tác giả cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam đối với Bác.

Bác Hồ là một vị Chủ tịch nước vĩ đại, một danh nhân văn hoá, hơn thế nữa, đối với người dân Việt Nam, Bác là một vị cha già dân tộc. Và ngay trong những dòng thơ đầu tiên Viễn Phương đã thể hiện hết tình cảm đó của mình:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Là một người con của miền Nam, Viễn Phương lần đầu tiên được đến thăm lăng Bác. Từ con trong câu thơ đầu tiên đã cho thấy nhà thơ đã coi Bác là cha. Điều đó cũng có nghĩa: đối với nhà thơ, Bác như một người cha và dù Bác đã đi xa nhưng hình ảnh của Bác vẫn còn mãi mãi trong tâm hồn của nhà thơ. Với cách nói giảm, nhà thơ đã khẳng định một điều rằng Bác vẫn còn sống mãi, Bác là vĩnh cửu với những người dân miền Nam. Và ở đây nhà thơ đã gặp những hình ảnh vô cùng quen thuộc với ông và nhà thơ có cảm giác như được trở về nhà của mình. Một cảm giác nhớ nhung, tha thiết và xúc động khi được đoàn tụ với gia đình. Và có lẽ không chỉ riêng tác giả mà toàn thể nhân dân miền Nam cũng có cảm giác như vậy. Nhà thơ Viễn Phương đã nói lên tình cảm của ông cũng như nói hộ cho toàn nhân dân miền Nam đối với Bác. Và tình cảm đó còn được bộc lộ rõ hơn khi nhà thơ tiến vào lăng và được thể hiện qua khổ thơ thứ hai:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Cả khổ thơ thứ hai, nhà thơ Viễn Phương đã tôn vinh công lao của Bác đối với nhân dân Việt Nam bằng tất cả lòng kính yêu của mình. Hình ảnh mặt trời đi qua trên lăng là một hình ảnh của tự nhiên và đều đặn. Nhà thơ Viễn Phương đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ ví Bác như một mặt trời thứ hai. Và Bác còn to lớn hơn, rực rỡ hơn mặt trời của thiên nhiên, của vũ trụ. Chính vầng mặt trời đó đã chiếu những tia sáng ấm áp sưởi ấm tâm hồn và thắp sáng niềm tin của dân tộc Việt Nam. Đối với nhân dân Việt Nam, Bác thật là vĩ đại, công lao của Bác lớn hơn tất cả và vẫn sẽ trường tổn mãi mãi với thời gian trong tâm hồn mỗi con người. Nhà thơ Viễn Phương đã một lần nữa nói lên tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Đó là lòng biết ơn vô bờ bến và tình cảm đó cũng được thể hiện qua rất nhiều những hành động. Không chỉ dừng ở đấy, trước tình yêu thương ngây ngất, Viễn Phương còn nhìn hàng người đi như những bông hoa tươi thắm nhất từ mọi miền Tổ quốc trở về kết thành tràng hoa dâng lên Bác. Tràng hoa vừa là để thể hiện lòng kính yêu, vừa thể hiện nỗi tiếc thương vô hạn với người cha đã đi xa. Nhà thơ Viễn Phương còn rất tinh tế trong việc sử dụng hình ảnh bảy mươi chín mùa xuân. Mỗi mùa xuân là một tuổi và mùa xuân là hiện thân cho những gì tinh tuý nhất, xanh nhất của đời người. Bác đã sống một cuộc đời có ý nghĩa và bảy mươi chín tuổi của Người là bảy mươi chín mùa xuân. Nhưng dù Bác còn trong tim nhân dân miền Nam hay toàn dân tộc Việt Nam nói chung thì thực tế Bác đã đi xa thật rồi. Và niềm tiếc thương vô hạn đó đã được Viễn Phương bộc lộ hết chỉ trong bốn câu thơ vô cùng xúc động của khổ thơ thứ ba:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Thật vậy, khi nhà thơ vào trong lăng Bác, được gặp Bác, những tình yêu thương, lòng kính yêu của nhà thơ như vỡ tan ra hoà cùng bầu không khí yên tĩnh, trang nghiêm trong lăng. Dù vẫn biết Bác sẽ không bao giờ biến mất trong tim mỗi người dân Việt Nam nhưng thực tế Bác đã không còn hiện lên trước mắt mọi người. Vì Bác nằm ở đây, chìm sâu trong giấc ngủ bình yên và sâu lắng. Hai câu thơ cuối khổ thơ Viễn Phương đã trực tiếp nói lên tâm trạng của mình. Cảm giác được trở về, vui vì gặp cha đã không còn nữa. Bác ở trước mắt mà nhà thơ nghe tim đau nhói. Nhưng không riêng gì nhà thơ mà nhân dân miền Nam đối với Bác cũng một lòng như vậy. Nghe tin Bác ra đi, không con tim người dân Việt Nam nào lại không đau và cứ như ngừng đập. Tất cả tình cảm đó đối với Bác của nhà thơ hay nhân dân Việt Nam là vĩnh cửu và một lần nữa được thể hiện trong khổ cuối bài thơ:

Mai về miền Nan thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Cả khổ thơ cuối cũng như xuyên suốt bài thơ nói lên tâm nguyện của nhà thơ cũng như toàn thể nhân dân miền Nam đối với Bác. Ngay câu thơ đầu tiên, Viễn Phương đã bộc lộ trực tiếp tâm trạng của mình qua việc thương trào nước mắt. Ngày mai không còn bên Bác nữa, nhà thơ rất đau lòng không kìm nổi những giọt nước mắt. Dường như có một sự níu kéo nhà thơ ở lại lăng Bác. Biết điều đó là không thể, Viễn Phương đã chuyển những điều đó thành nguyện ước tuy đơn giản, mộc mạc nhưng cũng rất đỗi xúc động. Nhà thơ muốn hoá thân thành loài chim hót quanh lăng làm vui cho Bác, làm đoá hoa dâng hương thơm, dâng sắc đẹp. Nhưng chỉ khi nguyện ước thứ ba được nói ta mới có thể cảm nhận được sự lưu luyến của tác giả. Đó là muốn làm hàng tre đứng trong hàng tre trước lăng, trung thành với Bác như không muốn rời xa Người. Khổ thơ thứ tư là nguồn cảm xúc mãnh liệt của tác giả trước khi từ biệt Người. Qua đây nhà thơ Viễn Phương còn nói hộ cho toàn nhân dân miền Nam, nói về lòng kính yêu vô bờ bến đối với Bác và sự chia li khỏi Bác là một nỗi đau trong lòng mỗi người dân.

Qua bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thay mặt toàn thể nhân dân miền Nam nói lên tình cảm, lòng kính yêu đối với Bác. Bác ra đi là một sự mất mát của một dân tộc. Cho dù Bác không còn nữa nhưng Bác vẫn còn mãi mãi trong tâm trí những người dân miền Nam. Và đối với nhân dân miền Nam, Bác to lớn, vĩ đại hơn tất cả, vĩnh cửu và trường tồn mãi mãi với thời gian.

Câu trả lời:

Bầu trời này, nguồn sưởi ấm đất đai của chúng tôi làm sao Ngài có thể mua bán nổi? Ý nghĩ sao mà lạ lùng đối với chúng tôi. Nếu chúng tôi không có bầu không khí trong lành này và mặt nước long lanh, thì làm sao Ngài có thể mua nổi?

Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong ký ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó ký ức của người da đỏ.

Khi người da trắng chết đi, họ thường dạo chơi giữa các vì sao và quên đi đất nước họ sinh ra. Còn chúng tôi, chúng tôi chẳng thể quên được mảnh đất tươi đẹp này. Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều cùng chung một gia đình.

Ấy thế mà vị thủ lĩnh vĩ đại ở Washington lại ngỏ ý muốn mua mảnh đất này của chúng tôi. Họ đòi hỏi quá nhiều và hứa hẹn dành cho chúng tôi một nơi sống thoải mái, và rồi họ sẽ là người cha chăn dắt và chúng tôi sẽ trở thành những đứa con của họ. Vậy, chúng tôi phải cân nhắc ý muốn đất đai của họ. Nhưng, quả không phải việc giản đơn, bởi lẽ mảnh đất này đối với chúng tôi là thiêng liêng.

Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mảnh đất này cho Ngài, Ngài phải nhớ rằng, Ngài phải dạy bảo con cháu rằng, mảnh đất này là thiêng liêng và những tia sáng chói chang phản chiếu từ mặt hồ trong vắt sẽ nói lên cái gì đó về ký ức của người da đỏ. Tiếng thì thầm của dòng nước chính là tiếng nói của cha ông chúng tôi.

Những dòng sông là người anh em của chúng tôi, làm chúng tôi nguôi đi những cơn khát. Những dòng sông chuyên chở những con thuyền và nuôi lớn con cháu chúng tôi... Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ dạy bảo con cháu Ngài những dòng sông là người anh, người em của chúng tôi và các Ngài từ nay trở đi phải đối xử tử tế với những dòng sông như Ngài đã đối xử với anh em Ngài.

Tôi biết người da trắng không hiểu cách sống của chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất khác, bởi lẽ họ là kẻ xa lạ, và trong đêm tối, họ lấy đi từ lòng đất những gì họ cần. Mảnh đất này đâu phải là những người anh em của họ, mảnh đất này là kẻ thù của họ và khi đã chinh phục được, thì họ sẽ lấn tới. Mồ mả tổ tiên của họ, họ còn quên và họ cũng chẳng cần tới dòng tộc của họ. Họ cư xử với mẹ đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước đoạt được, rồi bán đi như những con cừu và những hạt kim cương sáng ngời. Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.

Tôi biết, cách sống của chúng tôi khác với cách sống của Ngài. Cảnh đẹp nơi thành phố của Ngài làm nhức nhối con mắt người da đỏ. Có lẽ, người da đỏ hoang dã và tăm tối chăng?

Ở thành phố của người da trắng, chẳng có nơi nào yên tĩnh cả, chẳng có nơi nào là nghe được tiếng lá cây lay động vào mùa xuân hay tiếng vỗ cánh của côn trùng. Nếu có nghe thấy thì đó cũng chỉ là những tiếng ồn ào lăng mạ trong tai. Và cái gì sẽ xảy ra đối với cuộc sống, nếu con người không nghe được âm thanh lẻ loi của chú chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của những chú ếch ban đêm bên hồ? Tôi là người da đỏ, tôi thật không hiểu nổi điều đó. Người Anh- điêng chúng tôi ưa những âm thanh êm ái của những cơn gió thoảng qua trên mặt hồ, được nước mưa gội rửa và thấm đượm hương thơm của phấn thông.

Không khí quả là quý quá đối với người da đỏ, bởi lẽ bầu không khí này là của chung, muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Người da trắng cũng cùng chia sẻ, hít thở bầu không khí đó. Nhưng hình như người da trắng chẳng để ý gì đến nó. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ rằng không khí đối với chúng tôi là vô cùng quý giá và phải chia sẻ linh hồn với tất cả cuộc sống mà không khí ban cho. Ngọn gió mang lại hơi thở đầu tiên của cha ông chúng tôi và cũng nhận lại hơi thở cuối cùng của họ. Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng cỏ.

Như vậy, chúng tôi mới cân nhắc những ý muốn mua mảnh đất này của Ngài. Nếu có quyết định chấp nhận yêu cầu của Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điều kiện - đó là, người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh em.

Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu bất cứ một cách sống nào khác. Tôi đã chứng kiến cả ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng trơ trọi vì bị người da trắng bắn mỗi khi có đoàn tàu chạy qua. Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn nhiều con trâu rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống. Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy đến với con thú thì cũng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc.

Ngài phải dạy cho con cháu rằng mảnh đất dưới chân chúng là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phải kính trọng đất đai. Ngài phải bảo chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dạy con cháu mình: Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình.

Ngay cả đối với người da trắng, họ được đi cùng và nói chuyện cùng với chúng như người bạn đối với người bạn, cũng không thể nào tránh khỏi số phận chung của con người. Sau hết chúng ta có thể trở thành anh em và hãy chờ xem. Nhưng điều mà chúng tôi biết trước được là đến một ngày nào đó người da trắng sẽ hiểu là chúng ta có cùng một Chúa, có thể lúc này Ngài nghĩ Ngài có Người (Chúa) nên Ngài muốn có mảnh đất này của chúng tôi. Nhưng Ngài sẽ không thể nào có được. Người là vị chúa của con người và tình cảm của Người sẽ được chia sẻ công bằng cho người da đỏ cũng như người da trắng. Mảnh đất này đối với Người là quý giá và làm tổn hại đến mảnh đất là khinh rẻ Đấng tạo thế. Người da trắng cũng vậy, rồi sẽ qua đi và còn sớm hơn tất cả các bộ lạc khác. Làm ô uế nấm mồ của Ngài, thì một đêm nào đó Ngài sẽ chết vì ngạt thở trên đất hoang mạc của Ngài.

Nhưng trước giây phút tàn lụi, ở trong Ngài sẽ loé sáng lên sức mạnh của Chúa, Người đã mang Ngài tới mảnh đất này là vì lý do đặc biệt nào đó đã cho Ngài quyền thống trị người da đỏ rồi bị thiêu cháy. Đối với chúng tôi vận số đó thật là huyền bí. Bởi vì, chúng tôi không hiểu nổi khi những con trâu rừng bị tàn sát, khi những chú ngựa sắt hoang ngự trị, khi những góc rừng kín đáo nặng mùi con người, khi quang cảnh của những vùng rừng xanh mướt bị những sợi dây biết nói xoá sạch. Đâu còn những cánh rừng rậm rạp? Tất cả đã qua đi và đâu còn những chú đại bàng vĩ đại? Tất cả đã qua đi.”