HOC24
Lớp học
Môn học
Chủ đề / Chương
Bài học
1.b 2.c 3.a 4.d
bạn tham khảo nhé:
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã kế thúc với những hình ảnh thật đẹp, thật ý nghĩa. Nó là biểu tượng thiêng liêng của tình đồng chí: Đêm nay rừng hoang…… ……..Đầu súng trăng treo Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản: rừng hoang sương muối và những đêm lạnh giá với những người lính đứng canh bên nhau, ở cái nơi mà sự sống cái chết chỉ còn là gang tấc. Từ “ chờ” cũng cho ta thấy rõ cái tư thế, tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững trãi thì cái gian khổ, khốc liệt cua cuộc chiến bị mờ đi. Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng. Sức mạnh của tình đồng chí vì thế mà càng nổi bật. Tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang lại cho người lính nét lãng mạn và cảm hứng thi sĩ trong cái hiện thực khắc nghiệt qua hình ảnh: Đầu súng trăng treo Câu thơ chỉ có 4 chữ, nhịp thơ thay đổi đột ngột, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý của người đọc. Trong đêm phục kích, người lính bỗng phát hiệ nơi đầu súng có 1 vầng trăng treo. Từ “ treo” đã tạo nên mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi nên những liên tưởng vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Chất hiện thực ở đây được thể hiện rõ bởi đêm khuya trăng trên cao sà xuống thấp dần. Ở vị trí người lính, vầng trăng như đang treo trên đầu súng của mình. Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, vậy mà tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn thấy hình ảnh trăng và súng thú vị. Súng và trăng là gần và xa, là thực tại và mơ mộng, là chất hiện thực và chất lãng mạn, là chất chiến sĩ và chất thi sĩ. Đó là những mặt bổ sung, hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính. Súng và trăng đã tạo nên một cặp đồng chí tô đậm hơn vẻ đẹp của những người đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã khiến cho người lính cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, giúp họ tạo nên chiến thắng.
1. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê. - Năm 980, quân Tống sang xâm lược nước ta. Vì sự nghiệp bảo vệ nền ĐLDT, Thái hậu họ Dương đã chấp nhận ý kiến của các tướng sỹ tôn Lê Hoàn làm vua để lãnh đạo kháng chiến. - Đây là thắng lợi rất nhanh, rất lớn đè bẹp ý chí xâm lược của quuan Tống. 2. Kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 - 1077). - Thập kỷ 70 của thế kỷ XI nhà Tống âm mưu xâm lược Đại Việt. - Nhà Lý đã tổ chức kháng chiến: + Giai đoạn 1: thực hiện chiến lược đem quân đánh trước chặn thế mạnh của giặc. Năm 1075, đánh sang đất Tống, Châu Khâm, Châu Liêm, Ung Châu sau đó rút về phòng thủ. + Giai đoạn 2: chủ động lui về phòng thủ đợi giặc. Năm 1077, 30 vạn quân Tống bị đánh bại tại bến bờ Bắc của sông Như Nguyệt - ta chủ động giảng hòa và kết thúc chiến tranh.
Wow ! Nhìn ngon quá đi mất, cảm ơn Như Ý nhé! Mình nhìn thèm chảy nước dãi rồi đây này! Chúc Như Ý có một Noenl vui vẻ và hạnh bên gia đình và người thân nhé! ^^
*Anh: - Cuối thế kỉ XIX- đầu XX, mặc dù Anh mất dần về vị trí công nghiệp song quá trình tập trung TB ở Anh đc đẩy mạnh với sự xuất hiện của nhiều tổ chức độc quyền kiểm soát các ngành KT lớn như công nghiệp luyện kim, đóng tàu khai thác mỏ. - Sự tập trung TB trong tay các ngân hàng lớn hình thành những tập đoàn TB tài chính chi phối toàn bộ đời sống KT của Anh như sự xuất hiện của 5 ngân hàng lớn ở Luân đôn - Anh tăng cường xâm lc thuộc địa và xuất cảng TB. Anh đầu tư TB vào các nc thuộc địa và bóc lột thuộc dịa về mặt tài nguyên, nhân công, thị trường để đem lại nguồn cách xù cho chính quốc. Do đó hệ thống thuộc địa của Anh có mặt khắp các châu lục. Người Anh luôn tự hào là nc " MTrời ko bao h lặn". Lê nin gọi đây là chủ nghĩa đế quốc thực dân * Đức: - Cuối thế kỉ XIX, nền KT TBCN ở Đức phát triển nhanh chóng nên quá trình tập trung TB vào sản xuất diễn ra nhanh chóng với sự ra đời của các công ti độc quyền dưới những hình thức cacten và xanh đi ca -Đức đẩy mạnh quá trình chuẩn bị chiến tranh xâm lc trên toàn TG nhằm cạnh tranh với Anh, Pháp. Vì vậy Đức đã công khai dùng vũ lực để chia lại TG. Chúng đầu tư ngân hàng vào các ngành công nghiệp quân sự và chuẩn bị các kế hoạch đánh bại A, P, Nga, mở rộng lãnh thổ
Đới ôn hoà là nơi gặp nhau của không khí nóng và không khí lạnh. - Thời tiết ở đới ôn hoà mang tính chất trung gian giữa đới nóng và đới lạnh vì so với đới nóng, nhiệt độ thấp hơn và lượng mưa ít hơn, nhưng so với đới lạnh thì nhiệt độ lại cao hơn và lượng mưa nhiều hơn. Nhiệt độ và lượng mưa thay đổi theo vị trí gần cực (gần đới lạnh) hay gần chí tuyến (gần đới nóng). - Thời tiết ở đới ôn hoà mang tính thất thường thể hiện ở các đợt khí nóng ở chí tuyến và các đợt khí lạnh ở vùng cực có thể tràn tới bất thường, nhiệt độ có thể tăng hay giảm 10° - 15°C trong vài giờ. Gió Tây ôn đới và các khối khí từ đại dương vào làm cho thời tiết biến động rất khó dự báo.
Môi trường đới ôn hoà có sự phân hoá theo không gian và thời gian. - Thiên nhiên thay đổi theo 4 mùa rõ rệt : xuân, hạ, thu, đông - Sự phân hoá theo không gian thể hiện ở sự thay đổi của thực vật, khí hậu, cảnh quan từ tây sang đông, từ bắc xuống nam, từ thấp lên cao. Ví dụ : Từ tây sang đông, thực vật từ rừng lá rộng —> rừng hỗn giao và cuối cùng là rừng lá kim ; khí hậu thay đổi từ ôn đới hải dương sang ôn đới lục địa. ở vĩ độ cao. mùa đông rất lạnh và kéo dài, mùa hạ ngắn. Ờ gần chí tuyến có môi trường địa trung hải: mùa hạ nóng và khô, mùa đông ấm áp, mưa vào thu đông,...
tính chất trung gian và thất thường của khí hậu ở đới ôn hòa thể hiện ở các đặc điểm:
a, tính chất trung gian:
- nhiệt độ trung bình so với đới nóng: cao hơn
- nhiệt độ trung bình so với đới lạnh: thấp hơn
- lượng mưa trung bình năm so với đới nóng: cao hơn
- lượng mưa trung bình năm so với đới lạnh:ít hơn
b, sự thất thường của khí hậu biểu hiện ở: vị trí và hướng gió
( mình nghĩ vậy)