Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Đồng Nai , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 17
Số lượng câu trả lời 146
Điểm GP 27
Điểm SP 98

Người theo dõi (27)

Đang theo dõi (38)

Phạm Thu Thủy
Cảo TH
Nguyễn Anh Thư

Câu trả lời:

Cô bé bán diêm là một câu chuyện nhỏ có vị trí quan trọng trong truyện cổ An-đéc-xen. Qua tác phẩm, An-đec-xen đã làm hiện lên trước mắt chúng ta hình ảnh của một em bé gái nghèo khổ, bất hạnh, mồ côi mẹ. Câu chuyện đã gỢi cho người đọc một nỗi cảm thương, xót xa trước cảnh ngộ khốn cùng và cái chết thương tâm của cô bé. Trong cuộc đời này, còn có gì đau đớn hơn khi một đứa trẻ bị bỏ rơi, cô đơn, lẻ loi giữa đời.

Lòng ta như quặn đau khi nghĩ đến hình ảnh cô bé một mình bơ vơ giữa một không gian mênh mông trong đêm tối. Trời thì rét cắt da, cắt thịt, ‘em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối, chân em đỏ ửng lên rồi tím bầm lại vì rét’. Lạnh. Đói. cả nỗi sợ hãi nữa. Suốt một ngày ròng rã, em đã không bán được bao diêm nào. Hình ảnh người cha vũ phu và những trận đòn khủng khiếp đang chờ đợi ở nhà khiến cho cô bé không dám về. Đối lập với hình ảnh ấy là cảnh mọi người được sum vầy, vui vẻ trong những căn nhà ấm cúng bên lò sưởi, cảnh ngộ của cô bé trở nên đau đớn hơn vì đó lại là đêm giao thừa - khi mà tất cả niềm vui và hạnh phúc đang tràn ngập khắp mọi nơi. ‘Em ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà’, thu đôi chân vào người và cảm thấy ‘mỗi lúc càng rét mướt hơn’. Trái lại, ‘Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay’. Chỉ một mình em trên phố vắng, ‘khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em’.

Trên nền hiện thực ấy, tác giả đã giả đã để cho cô bé bán diêm xây mộng tưởng. Và kì lạ biết bao khi mộng tưởng ấy lại hiện lên chính ở nơi đây, trong đêm giao thừa giá rét. Nép mình trong một góc tường tối tăm lạnh lẽo, cô bé quẹt diêm để sưởi. Và theo ánh sáng của những que diêm cháy lên, bao mộng tưởng đẹp đẽ liên tiếp hiện ra trước mắt cô bé.

Que diêm thứ nhất bật sáng rực như than hồng. Cô bé như nhìn thấy lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong thoáng chốc, que diêm vụt tắt và thực tại nghiệt ngã phũ phàng đã trở lại. Không có lò sưởi. Chỉ có tuyết rơi lạnh lẽo.

Que diêm thứ hai bùng cháy, cô bé mơ được sống trong mái nhà êm ấm có ‘tấm rèm bằng vải màu’, ‘một mâm cỗ sang trọng’, ‘khăn trải bàn trắng tinh, có bát đĩa bằng sứ và ngỗng quay’. Giữa lúc ‘bụng đói cật rét’, cô bé đã mường tượng ra cảnh ‘ngỗng nhảy ra khỏi đĩa và mang theo cả dao ăn, phuốc sét cắm trên lưng tiến về phía em’. Nhưng rồi ánh sáng ngọn lửa cũng dần vụt tắt, mang theo cả ước mơ của cô bé. Không có mâm cỗ. Cũng không có ngỗng quay. Chỉ có cơn đói đang hành hạ em.

Que diêm thứ ba được bật lên đúng vào thời khắc giao thừa, mọi người trong các ngôi nhà tràn ngập ánh đèn đang chúc tụng nhau bước sang năm mới vui vẻ, hạnh phúc. Trước mắt cô bé chợt hiện lên một cây thông Noen được ‘trang trí lộng lẫy’ với ‘hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi’. Khi cô bé tội nghiệp với tay về phía cây thông Noen thì que diêm vụt tắt. Những ngọn nến bay cao lên mãi rồi ‘biến thành những ngôi sao trên trời’. Tất cả chỉ là ảo ảnh.

Que diêm thứ tư bùng cháy, ánh lửa xanh toả ra. Trong vầng sáng tuyệt vời ấy là hình ảnh của người bà hiền hậu đã khuất. Với cô bé tội nghiệp, gặp bà trong mơ là một hạnh phúc vô cùng to lớn, thiêng liêng. Em không thể để bà biến mất nhanh chóng như lò sưởi, ngỗng quay và cây thông Noen được. Những que diêm cứ thế nối nhau loé sáng trong âm thanh cầu nguyện tha thiết của em: ‘Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà ‘. Và điều kì diệu đã đến với cô bé: ‘Bà đã cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe doạ họ nữa. Họ đã về chầu Thượng đế’.

‘Được về với bà ‘, với người mà em yêu thương nhất là nguyện vọng cuối cùng của cô bé bán diêm. Khi que diêm cuối cùng vụt tắt cũng là lúc giấc mơ của cô bé biến thành sự thực. Người đọc không khỏi chạnh lòng xót xa trước cảnh đầu năm mới, những người chơi xuân nhìn thấy một bé gái nằm chết bên một góc tường, giữa những que diêm cháy dở mà trên gương mặt thơ ngây lại ngời sáng niềm hạnh phúc. Phải chăng với em, cách duy nhất để thoát khỏi mọi buồn đau, cơ cực trong cõi đời này chính là được theo bà về với Thượng đế chí nhân? Và phải chăng ánh lửa diêm dù mong manh, yếu ớt cũng đã sưởi ấm phần nào tâm hồn non nớt của em, để em từ giã cõi đời này một cách nhẹ nhàng, thanh thản đến vậy?

Đã hơn một thế kỉ trôi qua kể từ ngày An-đéc-xen viết truyện Cô bé bán diêm, nhưng người đọc trên khắp hành tinh này, nhất là những bạn nhỏ, hình như vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời nguyện cầu tha thiết của cô bé tội nghiệp: ‘Xin bà đừng bỏ cháu ở nơi đây... Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu’. Cũng như Tiên, Phật, Bụt trong truyện cổ tích Việt Nam, ‘Thượng đế chí nhân’ trong truyện cổ An- đéc-xen là biểu tượng cho một niềm tin hướng tới sự thánh thiện vô cùng cao cả, thiêng liêng, tốt đẹp. ước mơ của cô bé trong câu chuyện là muốn được mãi mãi sống bên bà trong tình yêu thương, muốn thoát khỏi hiện tượng đói rét, khổ đau và nghiệt ngã. Thực tế thì cô bé đã chết đói, chết rét trong đêm giao thừa giữa khu phố với những ngôi nhà tràn ngập ánh sáng và sực nức mùi ngỗng quay, nhưng dưới ngòi bút lãng mạn, chan chứa tình cảm yêu thương, trìu mến của nhà văn An-đéc-xen, người đọc vẫn có cảm giác rằng cô bé tội nghiệp ấy không chết. Em đang được đi vào thế giới khác, hạnh phúc hơn và sung sướng hơn.

Trân trọng ước mơ của cô bé biết bao nhiêu, chúng ta lại càng đau đớn trước cái chết thương tâm của em bấy nhiêu. Và chúng ta phải cảm ơn nhà văn An-đéc-xen đã miêu tả cái chết của cô bé với một tấm lòng cảm thông sâu sắc. Có lẽ vì thế mà cái chết của cô bé không hề bi lụy. Ánh sáng huy hoàng của những giấc mơ hiện về mỗi khi một que diêm được bật lên đã trở thành vầng hào quang toả quanh cô bé tội nghiệp nong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, xua đi mọi giá băng, lạnh lẽo, giúp em quên hết mọi đau buồn. Nhìn dấu vết của rất nhiều que diêm cháy dở, những con người giàu có và sang trọng trong khu phố kia bảo nhau ‘chắc nó sưởi cho ấm’ vì họ làm sao biết được những điều kì diệu mà cô bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm. Chỉ có nhà văn An-đéc-xen thấu rõ và trân trọng bởi tấm lòng của ông đã thuộc về những con người nghèo khổ, bất hạnh trong cuộc đời.

Đến với truyện Cô bé bán diêm, người đọc chúng ta có thể cảm nhận được một cách sâu sắc ý nghĩa của hình tượng những ngọn lửa diêm. Đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về một mái ấm gia đình, về ấm no hạnh phúc, được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi và sống trong tình yêu thương của mọi người. Đây chính là ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

Có thể nói rằng, truyện Cô bé bán diêm là một câu chuyện đặc sắc. Truyện chỉ có một nhân vật, diễn ra cũng chỉ trong khoảnh khắc của những giờ phút đón giao thừa, vậy mà khiến cho người đọc phải lưu giữ trong lòng mình những cảm giác day dứt, xót xa. Và hình ảnh cô bé bán diêm với lời cầu nguyện mong muốn được thoát khỏi cuộc đời nghiệt ngã để theo bà ‘về với Thượng đế chí nhân’ càng nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương trẻ thơ, hãy cho trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trong tình cảm nâng niu, trân trọng của cả cộng đồng. Nhà văn An-đéc-xen ơi! Bức thông điệp mà ông gửi gắm trong những câu chuyện cổ ấy đã và đang trở thành hiện thực, và cuộc sống bình yên, hạnh phúc đang mỉm cười với rất nhiều, rất nhiều những cô bé bán diêm.

Câu trả lời:

Hồi nhỏ, ba mẹ và mấy chị em tôi sống chung trong căn nhà cùng với ông bà ngoại và cậu, mợ. Lúc ấy, gia đình tôi được một người quen tặng một con cún rất dễ thương. Nó tên là Si Tô - cái tên đã có trước khi Si Tô là thành viên mới chính thức của gia đình tôi.

Tôi nhớ khi về nhà tôi, Si Tô là một chú cún nhỏ dễ thương với bộ lông xù kết hợp với màu nâu hạt dẻ, trông bộ lông vô cùng quyến rũ và đập vào mắt người khác khi nhìn Si Tô lần đầu. Không những vậy, sự đáng yêu ấy còn được hấp dẫn hơn với đôi mắt đen long lanh và tròn xoe như hạt nhãn. Chiếc mũi của chú cún bé bé xinh xinh lúc nào cũng ướt cùng với đôi tai to, thính, lúc nào cũng vểnh vểnh lên như nghe ngóng điều gì. Nét đáng yêu ấy còn thể hiện qua cái đuôi tí xíu, nho nhỏ lúc nào cũng ngoe nguẩy theo nhịp những bước chân ngắn, mập mạp đi một cách uyển chuyển. Ngày tháng trôi qua, Si Tô lớn dần và ngày càng thân thiết với mọi người và vóc dáng của chú cún ngày càng tuyệt đẹp hơn.

Tôi nhớ rất rõ mỗi lần tôi và Ngọc Ngân đi học mẫu giáo về, từ xa, Si Tô đã đứng ngay sau cánh cổng đợi, ánh mắt hướng về phía chúng tôi. Ba mẹ mở cửa và Si Tô rất mừng, nhảy cẫng lên vui mừng thật đáng yêu! Ba tôi khép cửa và tôi, Ngọc Ngân vuốt ve bộ lông mượt mà ấy, thực sự rất thích Si Tô nằm xuống và ngước nhìn kêu lên “ư ử” như muốn nói ràng “chào hai chị - cử chỉ thân thiện, đáng yêu làm sao! Lúc ấy, tôi bảo: “Si Tô đợi hai chị cất cặp nha!”. Rồi tôi và Ngọc Ngân lon ton chạy vào nhà cất cặp và thưa ông bà ngoại đi học mới về. Sau đó bà ngoại đưa tôi đồ ăn nhẹ buổi chiều của Si Tô. Tôi, Ngọc Ngân cho Si Tô ăn. Si Tô ăn rất chậm rãi, chắc nó không đói lắm. Sau đó, tôi lấy một hộp sữa trong tủ lạnh đổ vào chén của Si Tô một nửa, Si Tô hớp từng ngụm nhỏ trong bát. Ăn xong, tôi và Ngọc Ngân ôm Si Tô chơi với nhau.Sau đó, ba ra tắm cho Si Tô rồi mặc đồ cho nó.Trông nó thật đáng yêu làm sao, giống như một cô “công chúa nhỏ”! Và ngày nào cũng thế, tình bạn của chúng tôi ngày càng khăng khít hơn, không xảy ra chuyện gì. Si Tô là một chú cún nghịch ngợm nhưng cũng rất đáng yêu, thân thiện.

Si Tô là chú bảo vệ nhỏ của nhà tôi. Tuy “nhỏ nhưng có võ”. Mồi lần có tiếng động hay người lạ, Si Tô sủa vang ầm ĩ cả nhà.

Và một ngày thật đáng buồn! Hôm ấy khi tôi còn là một đứa trẻ cấp hai, vào đêm cỡ chín giờ hơn thì gia đình tôi cho Si Tô ăn cơm rồi và nó đang nằm dài ngoài sân. Lúc đó, cửa chính đang mở hé nhỏ vì chị tôi mới ra ngoài mua đồ gần nhà sẽ về nhà liền nên đóng cửa hờ lại. Sau đó, ba tôi định ra ngoài sân đổ xích Si Tô lại thì không thấy nữa. Ba hỏi mọi người con Si Tô đâu rồi ai cũng nói không biết và tôi nhớ ra lúc nãy chị hai đi ra ngoài và tôi nghe tiếng Si Tô sủa to nhưng tôi nghĩ là mấy người hàng xóm hay mấy đứa bạn cùng tuối tôi hoặc lớn hơn hay đi qua nhà ngoại tôi vào buổi tối nên tôi không quan tâm lắm và sau đó thì không nghe tiếng chó sủa gì cả. Và rồi tôi cùng Ngọc Ngân, ba, cậu và anh đi kiếm vòng vòng quanh đâu đó và hỏi người ta có thấy không, có người nói là tôi không biết, tôi không thấy, có cô kia thì nói: “Khi nãy có thấy một đứa con trai tầm hai mươi vô nhà rồi ra có mang theo cái ba-lô, tôi tưởng người nhà mấy anh nên không để ý lắm”. Cô nói thêm là: “Đứa con trai đó mặc áo đen hay xanh gì đó tại tối quá tôi nhìn không rõ với không nhớ kĩ lắm”. Nhưng hôm đó nhà tôi không ai mặc áo như vậy cả. Sau đó ba tôi cám ơn cô xong ba nói: “Thôi về nhà đi, người ta bắt con Si Tô mình rồi không kiếm được đâu!”.

Sau đó chúng tôi về nhà, tôi và Ngọc Ngân rất buồn vì chú chó con ấy rất dễ thương và thân với hai chị em tôi. Lúc đó, đây là lần đầu tiên mà tôi thấy trống rồng khi biết mình đã mãi mãi mất đi một người bạn thân rất tốt bụng và thân thiện.

Tôi nhớ mãi cái hình dáng đáng yêu, ngộ nghĩnh ngày nào của Si Tô. Từ đó vẻ sau, gia đình tôi không nuôi chó nữa, kông phải chúng tôi hết yêu chúng mà là vì sợ việc này sẽ xảy ra một lần nữa và lại buồn khi nhìn thấy một con vật hiền lành, đáng yêu của mình bị người khác bắt đi.


Câu trả lời:

1) Tóm tắt truyện : Có một con ếch sống lâu ngày trong một cái giếng, xunh quanh chỉ có nhái, cua, ốc, chúng rất sợ tiếng kêu của ếch. Ếch tưởng mình oai như vị chúa tể và coi trời bé bằng cái vung. Năm trời mưa to khiến nước mưa ngập giếng và đưa ếch ra ngoài, quen thói cũ ếch đi lại nghênh ngang đã bị một con trâu đi ngang dẫm bẹp.

2) Bố cục: 2 phần

Từ đầu:" như một vị chúa tể" Ếch khi ở trong giếng

Còn lại: Ếch khi ra khỏi giếng

3) a. Khi ếch ở trong giếng:
- Câu: “Cómột con ếch sống lâu ngày trong một giếng nọ”.
+ Không gian: nhỏ bé, không thay đổi.
+ Cùng các con vật như nhái, cua, ốc...
- Hàng ngày, ếch kêu ồm ộp.
- Các con vật rất hoảng sợ.
+ Ếch thấy mình to lớn như “vị chúa tể”.
+ Hoàn cảnh sống chật hẹp, đơn giản.

Ếch tưởng: bầu trời chỉ bé bằng chiếc vung còn nó thì oai như một vị chúa tể.
+ Ếch là kẻ hiểu biết nông cạn, nhưng huênh hoang.
- Nghệ thuật: Nhân hóa, hình ảnh gần gũi, quen thuộc gợi nhiều liên tưởng.
- Nội dung: Dù hoàn cảnh, môi trường sống hạn chế cũng không được tự bằng lòng, ảo tưởng, ngộ nhận về mình mà phải cố gắng học tập để vươn lên.

b. Khi ếch ra khỏi giếng:
- Tình huống: mưa to, nước dềnh lên, tràn bờ, ếch ra ngoài.
- Không gian: rộng lớn
- Cử chỉ: đi lại khắp nơi, nhâng nháo nhìn trời, chả thèm để ý đến xung quanh
+ Ếch không tự ý thức về mình.
+ Kiêu ngạo, chủ quan
- Kết cục: Ếch bị trâu giẫm bẹp

Nghệ thuật: Cách kể chuyện bất ngờ, hài hước, kín đáo. Nghệ thuật nhân hóa, sử dụng từ láy đặc tả (nghênh ngang, nhâng nháo).
- Nội dung: Không được chủ quan, kiêu ngạo, coi thường xung quanh vì chủ quan kiêu ngạo thường phải trả giá đắt.