Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 2
Số lượng câu trả lời 255
Điểm GP 67
Điểm SP 696

Người theo dõi (66)

TACA CHANNEL
Anh Ma
Thu Trang

Đang theo dõi (7)

Phúc Hoàng
Thảo Phương
Sen Phùng
Nấm Gumball

Câu trả lời:

1.* Nước ta có 3 vùng kinh tế trọng điểm:

* Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc: Diện tích 15,3 nghìn km2, dân số 13,7 triệu người. - Gồm 7 tỉnh thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. - Thế mạnh và hạn chế: + Có vị trí địa lí thuận lợi cho giao lưu phát triển. + Có Hà Nội là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. + Có cơ sở hạ tầng phát triển, đặc biệt là GTVT. + Có lao động đông, chất lượng tốt, tuy nhiên thất nghiệp cao. + Có các ngành kinh tế sớm phát triển, cơ cấu đa dạng. - Cơ cấu GDP nông-lâm-ngư nghiệp: 12,6%, Công nghiệp xây dựng: 42,2%, dịch vụ: 45,2%. - Hướng phát triển: + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. + Phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, chú trọng thương mại, dịch vụ. + Giải quyết vấn đề việc làm, thất nghiệp. + Chú ý vấn đề môi trường. * Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Diện tích: 28000km2, dân số 6,3 triệu người. - Gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. - Thế mạnh và hạn chế: + Có vị trí chuyển tiếp từ Bắc – Nam, là cửa ngõ thông ra biển của Tây Nguyên, Lào. + Có Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, đầu mối giao thông của miền Trung và cả nước. + Có thể mạnh tổng hợp về khai thác tài nguyên biển, rừng, khoáng sản. + Khó khăn về lao động, cơ sở vật chất hạ tầng và GTVT. - Cơ cấu GDP: nông-lâm-ngư: 25%, công nghiệp-xây dựng: 36,6%, dịch vụ; 38,4%. - Hướng phát triển: + Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển tổng hợp biển, rừng , du lịch. + Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, giao thông vận tải. + Phát triển công nghiệp chế lọc dầu khí. + Giải quyết vấn đề chất lượng lao động. + Chú ý phòng tránh thiên tai (bão, lũ, phơn Tây Nam). * Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Diện tích 30,6 nghìn km2, dân số 15,2 triệu người. - Gồm 8 tỉnh, thành phố: TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang. - Thế mạnh và hạn chế: + Là vị trí bản lề giữa Tây Nguyên, DH Nam Trung Bộ với ĐB sông Cửu Long. + Có tài nguyên nổi trội là dầu khí. + Cư dân đông, lao động dồi dào, có trình độ cao, có kinh nghiệm sản xuất. + Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối tốt và đồng bộ. + Có Tp Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế của vùng, phát triển năng động tập trung nhiều tiềm lực sản xuất. + Có thể mạnh về khai thác tổng hợp biển + rừng + khoáng sản. - Cơ cấu GDP: nông-lâm-ngư: 7,8%, công nghiệp-xây dựng: 59%, dịch vụ; 33,2%. - Hướng phát triển: + Chuyển dịch cơ cấu kinh thế theo hướng phát triển các ngành công nghệ cao. + Hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, GTVT theo hướng hiện đại. + Hình thành các khu CN tập trung. + Giải quyết vấn đề đô thị hóa và việc làm cho lao động. + Phân điểm các dịch vụ tri thức.

+ Chú ý vấn đề môi trường.

2.

a- Đông dân, nhiều thành phần dân tộc:

* Đông dân

– Năm 2010: số dân nước ta là 86.9 triệu người, thứ 3 ở ĐNA, thứ 13 trên thế giới.

+ Thuận lợi:

Là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước Nguồn lao động dồi dào Thị trường tiêu thụ lớn

+ Khó khăn: Trong điều kiện nước ta hiện nay, dân số đông lại là một trở ngại lớn cho PTKT, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

* Nhiều dân tộc

– Nước ta có 54 dân tộc, nhiều nhất là dân tộc kinh khoảng 86.2% dân số. Ngoài ra còn có khoảng 3,2 triệu người Việt đang sinh sống ở nước ngoài.

+ Thuận lợi: Văn hoá đa dạng, giầu bản sắc dân tộc, trong lịch sử các dân tộc, luôn đoàn kết bên nhau tạo sức mạnh phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.

+ Khó khăn: Mức sống nhiều dân tộc ít người còn thấp- cần phải chú trọng đầu tư hơn nữa.

b- Dân số còn tăng nhanh, cơ cấu dân số trẻ.

– Gia tăng dân số nhanh:

Dân số nước ta tăng nhanh, đặc biệt nửa cuối thế kỳ XX, đã dẫn đến hiện tượng bùng nổ dân số, nhưng khác nhau giữa các thời kỳ.

Nguyên nhân do tỷ lệ sinh cao, số người trong độ tuổi sinh đẻ lớn, do tâm lý, quan niệm lạc hậu, tư tưởng trọng nam muốn có con trai…)

+ Nhịp điệu tăng dân số giữa các thời kì không đều:

Thời kì 1943- 1951 tỉ lệ tăng dân số trung bình là 0,5% Thời kì 1954- 1960 tỉ lệ tăng dân số trung bình là 3,93% Thời kì 2002- 2005 tỉ lệ tăng dân số trung bình là 1,32% Thời kì 2005- 2010 tỉ lệ tăng dân số trung bình là 1,04%

+ Do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoach hóa gia đình nên mức gia tăng dân số hiện nay có giảm nhưng còn chậm, mỗi năm dân số nước ta vẫn tăng thêm trung bình hơn 1 triệu người.

+ Gia tăng dân số nhanh tạo nên sức ép rất lớn đối với phát triển KT- XH ,bảo vệ TNTN, môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống .

– Cơ cấu dân số trẻ:

+ Dân số nước ta thuộc loại trẻ, đang có sự biến đổi nhanh chóng về cơ cấu dân số theo nhóm tuổi.

Từ 0 đến 14 tuổi tỉ lệ giảm Từ 15 tuổi – 59 tuổi tỉ lệ tăng. Trên 60 tuổi tỉ lệ tăng.

+ Số người trong độ tuổi lao động chiếm 66,67%(2009) dân số, hàng năm tăng thêm hơn 1 triệu lao động nữa.

* Thuận lợi cuả dân số trẻ là lao động dồi dào và hàng năm được tiếp tục bổ sung, lao động tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh, năng động.

* Khó khăn lớn nhất là vấn đề việc làm.

*** Đặc điểm đó có ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội:

a. Thuận lợi:

– Lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn, thu hút nhiều đầu tư, phát triển các ngành cần nhiều lao động..

– Nguồn lao động dự trữ dồi dào, tiếp tục được bổ sung, tiếp thu nhanh KHKT

b. Khó khăn

– Đối với phát triển kinh tế:

+ Tốc độ tăng dân số chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế

+ Vấn đè việc làm là thách thức

+ Sự phát triển kinh tế chưa đáp ứng với tiêu dùng và tích lũy

+ Chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ

– Đối với xã hội:

+ Chất lượng cuộc sống chậm cải thiện

+ GDP bình quân đầu người thấp

+ Các vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa còn gặp nhiều khó khăn

+ Tệ nạn xã hội, mất trật tự an ninh có xu hướng gia tăng

– Đối với tài nguyên môi trường

+ Nguồn tài nguyên thiên nhiên suy giảm

+ Môi trường nước, không khí, đất… bị ô nhiễm, chất lượng suy giảm

+ Không gian cư trú chật hẹp

Câu trả lời:

Chú bé Hồng trong Trong lòng mẹ chính là nhà văn Nguyên Hồng thuở thiếu thời, phải chịu nhiều cay đắng trong cảnh nghèo khổ và mồ côi. Tập hồi kí Những ngày thơ ấu của ông rất xuất sắc. Đoạn văn trích trên đây, dù chỉ phác qua một cảnh nhỏ, cũng cho ta thấy nỗi lòng đau khổ của bé Hồng trong những ngày xa mẹ, sống và niềm sung sướng tột độ trong giây phút gặp lại mẹ - người mẹ yêu quý, đáng thương nhất của mình, bấy lâu chờ mong, khao khát.

Bé Hồng thương yêu mẹ sâu sắc. Mặc dù gần một năm trời sống bơ và đói rách giữa thái độ ghẻ lạnh và nhất là những lời lẽ cay nghiệt của người cô nói xấu mẹ mình, lòng yêu thương mẹ của Hồng không vì thế mà suy giảm. Ngược lại, bé càng thông cảm với mẹ hơn. Hồng đã rất sớm nhận ra cái bất công của cổ tục làm khổ nhục mẹ mình và xót xa mẹ đến “cổ họng nghẹn ứ” muốn “vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kỳ nát vụn mới thôi” cái cổ tục ấy nếu như nó cụ thể như hòn đá, cục thủy tinh. Lòng thương yêu, kính trọng mẹ đã giúp Hồng trước sau nhận rõ ác ý của người cô cay nghiệt vẫn thấy mẹ mình phải được che chở, phải được sống đàng hoàng giữa cuộc đời. Trong lòng chú bé, nguyên vẹn người mẹ rất đáng yêu, rất đẹp với “gương mặt vẫn tươi sáng, đôi mắt trong và nước da mịn... tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Trong sâu thẳm cảm giác vẫn nguyên sự ấm áp “mơn man khắp da thịt”, “hơi quần áo... hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra thơm tho lạ thường”, sau bấy lâu xa vắng, giờ lại được ngồi gọn trong lòng mẹ. Giây phút thiêng liêng đến xúc động!

Chính vì rất yêu thương mẹ và trong lòng bao giờ cũng chỉ thấy có mẹ là gần gũi, thương xót mình nhất, nên bé Hồng luôn cảm thấy buồn tủi trong cảnh sống nhờ. Trước thái độ miệt thị của người cô, Hồng “im lặng, cúi đầu xuống đất, lòng thắt lại, khóe mắt cay cay”, có lúc “nước mắt tôi đã ròng ròng...” khi người mẹ xiết mãi nỗi đau ấy. Ngay cả lúc bất ngờ gặp mẹ, nỗi mừng của Hồng cũng . .... chứa cái tủi, khiến chú “òa lên khóc, rồi cứ thế nức nở” trong lòng mẹ.

Một chuỗi ngày nén yêu thương, tủi hờn cũng là chuỗi ngày Hồng khao khát muốn gặp mẹ. Nỗi khao khái ấy thể hiện rõ trong bước chạy “ríu cả chân lại" của chú bé. Nỗi khao khát ấy khiến chú bé hình dung đến sự tuyệt vọng ghê gớm của người đi giữa sa mạc gặp ảo ảnh dòng nước, nếu bị nhận lầm dáng mẹ. Cảm giác ấm áp sung sướng tuyệt vời “đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt” khi được trong lòng mẹ, cho ta thấy nỗi khao khát ấy cụ thể, xúc động biết chừng nào.

Phải như bé Hồng trong phút lăn vào lòng mẹ, “được bàn tay mẹ vuốt ve và gãi rôm ở sống lưng cho”, mới cảm thấy hết một nỗi “êm dịu vô cùng” mà chỉ mẹ mới có thể cho ta.

Chúng ta, ít người rơi vào cảnh đời cay đắng ấy, vì có mẹ chăm sóc, che chở. âu yếm. Em cũng may mắn như thế. Chính vì thế mà em cảm thương nỗi đau của thuở nhỏ Nguyên Hồng, nỗi đau của thân phận sống bơ vơ đầy tủi nhục, thèm khát tình thương. Qua tâm trạng của chú bé Hồng, em hiểu hơn những bạn nhỏ vì chiến tranh, vì thiên tai phải mất cha mẹ, họ khổ đau biết chừng nào. Dù xã hội, bà con có cưu mang, nuôi ăn học nhưng làm sao lấp nổi nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng những đứa con xa mẹ, mất mẹ. Nỗi đau ấy đeo đẳng con người suốt một đời. Và cũng suốt một đời, tìm đâu thấy Kìn tay quen thuộc vuốt ve âu yếm, lời ngọt ngào, trách mắng mến yêu, ruột thịt chỉ có ở mẹ. Hình ảnh và tâm tư của bé Hồng đã xúc động lòng em, khiến em thấy đầy đủ mọi niềm vui của mình được sống có mẹ là rất quý báu.

Câu trả lời:

* Bài hoàn toàn tự làm bạn yên tâm nhé!

Bài làm:

Tuổi thơ ai đã từng nắm chặt tay trong dây cước để điều khiển từng cánh diều tuổi thơ, ai đã có những buổi trưa hè chạy tung tăng đuổi kịp cánh diềucùng những đứa bạn chăn trâu thân thương! Ôi! Nghe mà lòng bồi hồi xúc động, trong tôi lại hiện hữu về những kí ức của một tuổi thơ dữ dội, giản dị mà đặc biệt!

Đó là một ngày đẹp trời. Không chỉ với những đứa trẻ chăn trâu đồng quê như tôi, tất cả lũ trẻ trong làng đều hớn hở chạy ra đồng, trên tay đứa nào đứa nấy cầm một con diều thật đẹp! Nhưng tôi lại không được như thế, tôi chỉ có cơ hội đứng từ dưới để nhìn lên những cánh diều thơ đang bay trên bầu trời trong xanh ấy. Tôi lặng lẽ từ đồng trở về nhà trong thâm tâm mong ước muốn có một cánh diều để chơi như lứa bạn. Tôi thầm nghĩ trong đầu rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ có một con diều!

Hôm đó tôi đang ở nhà giúp mẹ cắt cỏ cho những chú bò nhà tôi ăn, bỗng từ đâu mấy lũ trẻ đó lại ùa đến nhà kêu tôi đi thả diều, tôi nhìn cánh diều rồi nghẹn ngào nói:

- Thôi, mấy bạn đi trước đi, mình còn rất nhiều việc chưa giúp cha, giúp mẹ, hơn nữa mình không có diều như các bạn đâu. Thông cảm nhé!

Nói xong, tôi lặng lẽ vào nhà làm việc tiếp.....

Sáng hôm sau khi vừa mở mắt. Ôi ngày hôm nay thật đẹp. Sao tôi cảm thấy điều gì đó khác thường. Tôi dậy đánh răng rửa mặt rồi bắt đầu làm việc một ngày mới. Vừa bước ra khỏi phòng, tôi thấy một con diều màu đỏ trước mặt tôi. Tôi mừng quá chạy ra hỏi mẹ:

- Mẹ ơi diều của ai đấy ạ?

Mẹ rưng nước mắt nói với tôi:

- Là diều của bố mẹ tặng con, hãy chạy ra đồng và nô đùa cùng chúng bạn con nhé!

Tôi ôm chặt mẹ rồi hớn hở chạy ra đồng. Những cánh diều thơ bắt đầu được chúng tôi dâng lên rồi bay lơ lửng trên bầu trời. Những tiếng cười khúc khích làm cho không khí của đồng quê yên ả trở nên vui vẻ và náo nhiệt hon những ngày về trước. Các bác nông dân mải mê với công việc đồng áng, còn chúng tôi bận nhìn diều bay, bận nhìn cái thứ đồ mà hè nào trẻ con làng quê chúng tôi ai cũng có, bận thưởng thức cái sự đặc biệt khi thả diều mà thoang thoảng hương lúa gạo quê hương. Nhìn từ xa, những cánh diều ấy thật đẹp! Chúng cứ lửng lơ trên bầu trời bình yên mà hiện lên những vẻ đẹp ngây thơ, hồn nhiên của một tuổi thơ dữ dội.

Thật hạnh phúc các bạn ạ! Hạnh phúc lắm khi tuổi thơ được nô đùa cùng cánh diều biếc trên đồng lúa vàng tươi, được tươi cười cùng lũ bạn. Ngày nay, thế hệ trẻ ai cũng có diều, nhưng tuổi thơ của tôi về trước, có được một cánh diều là trải qua sự lao động vất vả của cha mẹ. Và khi lớn lên, tôi đi học và đã thuộc lòng những câu thơ của Đỗ Trung Quân:

"Quê hương là con diều biếc

Tuổi thơ con thả trên đồng

Quê hương là con đò nhỏ

Êm đềm khua nước ven sông"