Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Nghệ An , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 0
Số lượng câu trả lời 109
Điểm GP 13
Điểm SP 182

Người theo dõi (14)

Đang theo dõi (2)


Câu trả lời:

8.

Bạn vừa đọc một đoạn văn tả cảnh và bất chợt nhận ra vẻ đẹp của bông hoa nở trước hiên nhà, bạn vừa xem xong một quyển tiểu thuyết và thây yêu biết chừng nào cái góc phố dịu dàng với những người hàng xóm lương thiện... Văn chương đã đem đến tình thương cho tôi và cho bạn về những điều ngay ở bên cạnh, những điều diên ra trước mắt, những gì tưởng là nhỏ nhặt mà ta dễ bỏ quên. Có gì cao xa đâu, tình thương mà văn mang đến cho ta lại khởi phát từ chính sự chân thật của lòng ta. Văn học chỉ làm sứ mệnh kết nối và đánh thức tình thương của nhân loại, để trái tim tìm đến những trái tim, tâm hồn đến với những tâm hồn. Bằng chức năng chuyên chở tình thương, văn chương đã đến với cuộc đời như thế! Nói đến văn là nói đến một phương tiện biểu đạt cảm xúc của con người, nói đến văn học là nói đến một ngành khoa học của văn chương. Nghiên cứu văn học chính là soi chiếu “ba chiều” đời sống lên “hai mặt phẳng” trang văn (Chế Lan Viên) để phân định mọi cung bậc tư tưởng, tình cảm của con người. Đừng hỏi hà. cớ gì chỉ có tình thương mà sao không phải là một loại tình cảm khác. Tình thương là cội nguồn của mọi cảm xúc vì nó xuất phát từ tấm lòng chân thành, và cũng là điểm đến cuối cùng mà con người cần đạt đến. Vì thế như một lẽ tất yếu, văn học là tấm gương phản hình đời sống thì phải khơi gợi được sâu xa nhất đời sống là tâm hồn con người, là tình thương. Văn học chuyên chở tình thương là văn học chân chỉnh!

Ầu ơ lời ru của mẹ, thoang thoảng giọng hò bên sông, đọc đôi câu đối đình làng... thế thôi là yêu, thế thôi là nhớ. Điều nhân bản nhất văn học mang đến cho con người là cái tình mến thương với cuộc đời bình dị. “Nắng cho đời nên nắng cũng cho thơ” (Huy Cận), để rồi văn thơ đã đi tiếp chặng hành trình của nó mang cái tình nồng đượm của đời đến với lòng người. Tình thương đời có lẽ là mối tình thuỷ chung chân thật nhất...

“Làng tôi ở uốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”

Không cầu kì hoa mỹ, “Quê hương” của Tế Hanh hiện lên trong sự vây bọc của nỗi nhớ da diết, có gì đâu chỉ một làng chài ven biển như mọi ngôi làng khác, chỉ là hoạt động lao động rất đỗi bình thường, nhưng lòng mến thương của thi nhân đã là chất xúc tác biến kí ức thành loại men ngọt ngào. Bao quanh cái bình dị quen thuộc chợt trở thành hình ảnh biểu tượng với sức gợi lớn lao:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
Cái đẹp đâu chỉ có từ nghệ thuật nhân hoá thế này hay khả năng liên tưởng thế nọ, cái đẹp nằm ở ngay đằng sau câu chữ, là lòng tự hào của nhà thơ về quê hương. Là mảnh đất, là dân chài, là cuộc đời lao động... tất cả đều tồn tại trong cánh buồm ấy, “cánh buồm gương to” biểu tượng cho lòng say mê, niềm khát vọng đối với đời sống bình dị mà đẹp đẽ ở chốn quê hương mình. Để rồi “nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”, bởi đơn giản thôi, cái tình thương mến đã thấm vào máu thịt nên “khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).
Văn học từ đời sống đến thẳng với mọi người, với sức vang dội riêng của tâm hồn, bằng tiếng nói riêng của tình cảm. Từ tình thương đời đến tình thương người là cuộc hành trình tất yếu tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của văn học. Nó như nhân sự sông lên, làm cho người ta trong cuộc sống giới hạn của mình có thể bước qua ngưỡng cửa của hàng trăm cuộc đời khác, cùng vui buồn, ước mơ, lo toan với những con người khác. Ta vừa như quên mình, vừa như tự tìm ra mình trong sự đồng cảm bao dung ấy. Ai mà không xúc động trước hình ảnh của “cô bé bán diêm” giữa mùa đông tê tái, cứ từng hồi quẹt lên những que diêm để ngọn lửa nhỏ nhoi giữ lại những ước mơ đời thường. Ánh sáng của những que diêm hay ánh sáng của tình yêu và niềm hy vọng trong trái tim cô bé? Chính ánh sáng ấy đã lấy đi cảm giác về cái giá lạnh của trời đêm đang cướp dần sự sống ở trong em. Chính ánh sáng của trái tim lung linh như huyền thoại này đã khép lại câu chuyện bằng một hình ảnh tuyệt vời: hai bà cháu cầm tay nhau và vụt bay lên cao. Điều mà Anđécxen gửi gắm vào câu chuyện còn gì khác ngoài việc đánh động tình thương của con người. Tác giả để cho nụ cười đọng lại trên môi em như biểu tượng của tấm lòng vị tha, nhân hậu với cuộc đời. Nhưng đằng sau cuộc đời ấy là một cáu hỏi xót xa: tại sao một đứa trẻ không được mỉm cười bằng những hình ảnh tưởng tượng trước khi về với cõi chết? Chính người đọc phải tự tìm lấy câu trả lời.

Khơi gợi tình thương từ mặt trái của tình thương là cách tiếp cận với con người chua xót nhất. Không chua xót làm sao được khi hôm nay chỉ là cái bóng thầm lặng còn sót lại của “vàng son” hôm qua. “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tiếng thổn thức nhân bản trước sự tàn lụi của một nền văn hoá, sự tồn tại lay lắt của một nghệ sĩ tài hoa:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường khống ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Kết thúc bài thơ là câu hỏi khắc khoải vọng vào không gian, vọng đến lòng người:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

“Cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (cách nói của Vũ Đình Liên) đã ra đi cùng với thái độ thờ ơ, lãnh đạm của người đời. Bài thơ nhẹ nhàng quá mà sâu nặng những nỗi cảm thương!

Thế giới thức tỉnh trong tôi, sự sống rạo rực trăn trở trong tôi và muốn tôi hoà tan vào trong thế giới ấy, muốn ban phát cho tất cả mọi người mà tôi càng thấy thêm gắn bó keo sơn bằng mối tình nhân loại. Tác động của văn học với con người là như thế! Qua “Chiếc lá cuối cùng”, O-Hen-ri không chỉ gửi thông điệp tình thương bạn đọc muôn thế hệ mà còn thể hiện lòng tin yêu mãnh liệt về con người, tin rằng tình người có thể làm thay đổi tất cả, kể cả cái chết. Bằng khao khát “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất”, bằng tấm lòng nhân ái bao la, cụ Bơ-men đã “quên mình” để cứu lây sự sống cho Giôn-xi từ một “bức hoạ” đặc biệt: chiếc lá thường xuân trên bức tường. Bệnh lao phổi từ Giôn-xi, cái chết chực chờ của cô đã chuyển giao sang người hoạ sĩ già. Điều còn lại không phải là cái chết mà là nhân cách sống, nghị lực sống của những con người “biết” cải tạo hoàn cảnh và “dám’1 cải tạo hoàn cảnh cho mình và cho người.

Văn học chuyển tải tình thương và văn học là tình thương! Tình thương trong văn học là tấm lòng của nhà văn đối với nhân vật của mình, là những cảm xúc rung lên từ mỗi dòng văn, kiểu như “Nguyền Du viết Kiều như có máu giỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua từng trang giấy” vậy! Tình thương ấy tuy theo cách nhìn nhận của nhà văn nhà thơ đối với cuộc đời mà có nhiều sắc thái: một cảnh tình thương trong sáng với quê hương và con người lao động như “Quê hương” của Tế Hanh, một tình người bao la và niềm tin vững chắc vào con người như “Chiếc lá cuối cùng” của o Hen-ri, hay một trăn trở khắc khoải đến đau lòng vì sự dửng dưng, phủ phàng của người đời như trong “Cố bé bán diêm” của An- đéc-xen hay “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Nhưng rốt lại cùng vẫn là cái tình nhân loại.

Ta đứng giữa cuộc đời rộng lớn của nhân loại, hai chân ta đứng trên mặt đất, lòng ta toả rễ vào đời đế một ngày người ta hiểu ra rằng:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
(Tố Hữu)

Đó là thông điệp mà văn học chân chính gửi đến con người từ muôn thế hệ.

Câu trả lời:

7.

Áo dài là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Áo dài mang lại nét đẹp duyên dáng, đằm thắm làm say lòng người của người phụ nữ Việt. Bởi vậy đã có biết bao nhà thơ, nhà văn hết lời ca ngợi:

“Có phải em mang trên áo bay

Hai phần gió thổi một phần mây

Hay là em gói mây trong áo

Rồi thở cho làn áo trắng bay”

(Tương tư – Nguyên Bá)

Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận. Nhưng kiểu sơ khai nhất của chiếc áo dài là chiếc áo giao lãnh. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có công sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chính do sự di cư của người Minh Hương mà chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo dài giao lãnh để tạo nét riêng cho dân tộc Việt. “Thường phục thì đàn ông, đàn bà mặc áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở”…(Sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên) – đây là bằng chứng lịch sử cho ta thấy chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời chiếc áo giao lãnh như thế nào.

Qua bao giai đoạn thăng trầm của lịch sử áo dài đã thay đổi rất nhiều. Như đã nói ở trên, chiếc áo giao lãnh được coi là chiếc áo dài đầu tiên. Áo này cũng tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc hai tà không được buộc vào nhau. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả, cùng với váy thâm đen. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên khi mặc chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được thả nay cột gọn gàng mặc cùng váy xắn quai cồng tiện việc lao động. Đối với phụ nữ nông dân áo tứ thân được mặc rất đơn giản với áo yếm ở trong, áo ngoài cột tà và thắt lưng. Mặc kèm với áo thường là chiếc khăn mỏ quạ đen tuyền. Trong khi đó, áo tứ thân dành cho tầng lớp quý tộc lại rất nhiều chi tiết. Mặc ngoài cùng là chiếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc thường không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm màu đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc thiên lý. Áo mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao càng làm tăng thêm nét duyên dáng của người phụ nữ. Nhưng sau một thời gian áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng khuê các. Thế là chiếc áo ngũ thân ra đời. Áo ngũ thân được cải tiến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu và vạt con nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nhưng đến thời Pháp thuộc, chiếc áo đài lại một lần nữa thay đổi. “Lemur” là tên tiếng Pháp để chỉ chiếc áo dài cách tân. Chiếc áo dài này do người họa sĩ có tên là Cát Tường sáng tạo ra. Bốn vạt trước và sau thu gọn thành hai tà trước sau. Vạt trước dài chấm đất tăng thêm sự duyên dáng và uyển chuyển. Hàng nút phía trước của áo được chuyển dọc qua hai vai và chạy dọc một bên sườn. Áo may ráp vai, tay phồng, cổ bồng hoặc hở. Để cho đúng mốt, áo Cát Tường phải mặc với quần sa tanh trắng, đi giày cao, cầm bóp đầm. Do xã hội vẫn còn chưa cởi mở với cách ăn mặc này nên chiếc áo không được nhiều người chấp nhận vì họ cho là “đĩ thõa” (phản ánh của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm, “Số đỏ” đã chứng minh điều đó). Năm 1943, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng nhắc của áo Cát Tường, đưa thêm một số yếu tố dân tộc của áo tứ thân, ngũ thân đã tạo ra kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt trước tự do bay lượn. Sự dung hòa này được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đấy, áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó và từ đấy đến nay dù trải qua bao thăng trầm, bao lần cách tân, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn được giữ nguyên.

Cho tới ngày nay, chiếc áo dài đã được thay đổ rất nhiều. Cổ áo cổ điển cao 4 – 5 cm, khoét hình chữ V trước cổ. Cổ áo làm tăng thêm nét đẹp của chiếc cổ cao ba ngấn trắng ngần của người phụ nữ. Phần eo được chít ben làm nổi bật đường cong thon thả của chiếc lưng ong của người phụ nữ. Cúc áo là loại cúc bấm, được bố trí cài từ cổ qua vai xuống eo. Từ eo, thân áo được xẻ thành hai tà dài đến mắt cá chân. Ống tay áo may từ vai ôm sát cánh tay dài qua khỏi cổ tay. Áo thường mặc với quần lụa có màu sắc hài hòa với áo. Áo dài thường được may bằng lụa tơ tằm, nhung, voan, the,… rất phong phú. Nhưng có sự lựa chọn chung là nên chọn loại vải mềm, rũ. Để làm tăng thêm nét duyên dáng, khi mặc áo dài phụ nữ thường đội nón lá. Ở đồng bằng Nam bộ, áo dài được cải biên thành áo bà ba mặc với quần đen ống rộng để tiện việc lao động.

Chiếc áo dài là một trang phục không thể thiếu được của người phụ nữ ngày nay. Nó không chỉ là trang phục dân tộc mà còn là trang phục công sở của giáo viên, nữ sinh, nhân viên ngân hàng, tiếp viên hàng không,… Áo dài còn được mặc khi đi dạo phố, những buổi họp mặt quan trọng như lễ cưới chẳng hạn. Ngay cả cô dâu trong nghi thức bái gia tiên cũng không thể thiếu bộ trang phục này.

Do được may bằng chất liệu vải mềm nên áo dài cần được bảo quản cẩn thận. Chỉ nên giặt áo dài bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh nóng quá làm cháy áo. Luôn cất áo vào tủ cẩn thận giúp áo bền, đẹp và mới lâu. Nên giặt áo ngay sau khi mặc, treo bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo.

Câu trả lời:

1. Bài làm:

Trong lớp ta, từ đầu năm nay đã xảy ra một số tình trạng các bạn ham chơi, lười học nên kết quả học tập học kì một không được tốt. Do hỏng một khoản kiến thức khá lớn nên hầu như các bạn hụt hẫng, mất đi niềm tin không cố gắng được trong những học kì còn lại và những năm học sau này.

Các bạn hãy nhgĩ đến tương lai khoa học sau này, một tương lai công nghệ hoá hiện đại hoá, tất cả mọi thứ đều có sự tiến bộ vượt bậc. Liệu không có kiến thức trong đầu bạn có làm được chuyện gì ra hồn trong tương lai mình không ?Bạn theo đuổ kịp sự hiện đại đó không? Các bạn muốn bây giờ mình vui chơi thoải mái, thả mình với thời gian, hay muốn sau này mình sẽ làm được một điều gì đó cho nhân loại, bạn sẽ hết sức vinh dư, đi đâu cũng được mọi người khen ngợi, ca tụng, tiếng thơm còn lưu lại lịch sử khoa học muôn đời. Nếu bây giờ, bạn học hành không đàng hoàng, không cố gắng, lơ là, chễnh mảng, tương lai bạn sẽ ra sao? Mọi người chê cười, xỉ nhục bạn, vì bạn quá quê mùa so với thời đại, bạn quá ngu ***, bạn đi đâu người ta cũng sẽ chẳng buồn để ý đến sự có mặt của bạn, thậm chí chê bai, có thể đuổi bạn đi nữa, bạn chịu nổi một ngày mai như thế không? Bạn chọn một tương lai thế nào?

Chắc hẳn, bạn sẽ chọn tương lai tốt đẹp kia và bạn không hề muốn tương lai còn lại xảy ra trong cuộc đời mình. Nếu bạn muốn thế thì tại sao bạn không học?

Đó chỉ là chuyện tương lai, còn hiện tại, kết quả học tập của các bạn không tốt, làm gia đình, thầy cô buồn phiền.Chắc hẳn, không có ai muốn ngườithân mình, học trò mình có kết quả học tập không tốt. Các bạn có thể vừa học vừa chơi nhưng làm sao bạn “nghiện” học chứ đừng nghiện game. Một khi bạn đã hiểu nghĩa thực sự của từ “học”, lúc đó bạn sẽ say mê học, không ngừng học, học lúc đó đối với bạn là một điều không thể thiếu trong cuộc sống, một ngày không học đối với bạn chẳng còn ý nghĩa gì. Đó là sự “nghiện tốt đẹp”. Và khi bạn lớn lên với biết bao kiến thức đã trao dồi từ bây giờ, bạn sẽ làm được gì nào? Một nhà bác học, sử học uyên bác, nhà chiêm tinh học tài ba,nhà khoa học, vật lí học vĩ đại của nhân loại hay bác sĩ, nhạc sĩ , nhà văn,... biết bao công việc tốt đang chờ bạn trong tương lai.

Như BÁc hồ đã từng nói ;”trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. Vậy từ hôm nay, bạn hãy học, học vì xã hội, đất nước Việt Nam, vì tương lai của chính mình các bạn nhe

Thảo luận 2

Đất nước đang rất cần những người tài giỏi để đưa đất nước tiến lên “đài vinh quang”, sánh kịp với bạn bè năm châu.

Quanh ta đang có nhiều tấm gương của các bạn học sinh phấn đấu học giỏi nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước.

Muốn học giỏi, muốn thành tài thì trước hết phải học chăm.

Thế mà một số bạn trong lớp ta còn tỏ ra chểnh mảng trong học tập làm cho thầy,cô giáo và các bậc cha mẹ rất lo buồn.

Các bạn ấy chưa thấy rằng, bây giờ càng ham vui chơi, không chịu học hành thì sau này càng khó có niềm vui trong cuộc sống.

Vậy thì ngay từ lúc này, các bạn ấy hãy chuyên cần học tập hơn để trở thành người có ích cho cuộc sống và tìm được niềm vui chân chính, lâu bền.

Thảo luận 3

"Nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích !".

Học hành có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đời của mỗi con người. Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng : “Nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì khi lớn lên sẽ chẳng thể làm được việc gì có ích”. Bên cạnh đó còn có những câu : “Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ”. Hoặc : “Bất học bất tri lí” (Không học thì không biết lí lẽ, lẽ phải).

Suốt lịch sử phát triển mấy ngàn năm, nhân loại đã tích lũy được một kho tàng tri thức khổng lồ về tự nhiên và xã hội. Những tri thức ấy được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua hình thức truyền miệng và chữ viết (sách). Muốn tiếp thu tinh hoa trí tuệ, con người chỉ có một con đường duy nhất là học, học suốt đời.

Nói đến học là nói đến trí lực, một năng lực suy nghĩ, một trực quan nhạy bén, một tư duy hợp lí. Điều ấy hết sức cần thiết cho tất cả mọi người. Chính vì vậy, ngay từ lúc nhỏ, bất kì ai cũng phải được học hành.

Trong mười hai năm ở trường phổ thông, học sinh được cung cấp những kiến thức sơ đẳng của một số bộ môn cơ bản như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ… Tuy thế, học sinh phải chăm chỉ học hành thì mới hiểu và nắm vững kiến thức một cách có hệ thống. Nếu lơ là, chểnh mảng, thiếu nghiêm túc trong việc học hành thì rốt cuộc là tốn thời gian, tiền bạc mà kết quả thu được chẳng đáng là bao.

Thực tế cho thấy là có học có hơn. Mục đích của việc học là nhằm phục vụ cho mọi công việc đạt hiệu quả cao. Nếu ta đơn thuần làm việc theo thói quen hoặc kinh nghiệm có sẵn thì công việc sẽ tiến triển chậm và chất lượng không tốt. Cách làm như trên chỉ thích hợp với các công việc giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp liên quan đến khoa học kĩ thuật thì cung cách làm việc ấy là lạc hậu, lỗi thời. Muốn đạt hiệu quả tốt trong mọi lĩnh vực, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng, bằng mọi hình thức khác nhau.

Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay thì tri thức (chất xám) của con người là tiền đề vô cùng quan trọng. Có nắm vững lí thuyết, chúng ta mới làm được những công việc phức tạp. Có nắm vững lí thuyết, chúng ta mới làm được những công việc phức tạp. Lí thuyết khoa học có tác dụng soi sáng, dẫn đường cho kĩ năng thực hành, con người sẽ rút ngắn được thời gian mò mẫm, tìm hiểu thực tiễn, do đó sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.

Học không chỉ là quá trình rèn luyện tri thức mà còn là quá trình rèn luyện tình cảm và đạo đức. Con người ngoài cái trí còn cần có cái tâm. Học là để thấu hiểu những lẽ huyền bí của cuộc đời, của vũ trụ chứa đựng trong những công thức toán đơn giản hoặc trong những quy luật thịnh suy của một xã hội. Không hòa cái tâm của mình vào trong cuộc đời, vào vũ trụ để lắng tìm và cảm nhận thì làm sao có được những tín hiệu mách bảo cho trí tuệ con đường đi tới những lẽ huyền diệu và bí ẩn kia ?. Như vậy là có biết bao kién thức mới, nhận thức mới về cuộc đời, về thế giới mà chúng ta tìm kiếm được không chỉ bằng lí trí mà còn bằng cả tâm hồn.

Học cần có cái trí và cũng có cần có cái tâm là vì thế. Học cũng là để sáng thêm cái trí, lành thêm cái tâm và để đóng góp tài đức của mình cho sự nghiệp xây dựng đất nước mạnh giàu.

Điều quan trọng là đã học thì phải học đều các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Văn, Sử là những môn học cần thiết, nếu không nói là đặc biệt quan trọng để tạo nên nhân cách. Nếu chúng ta không coi trọng các môn này thì tâm hồn sẽ khô cứng, vô cảm trước con người và cuộc đời mà dẫn đến thái độ dửng dưng trước vẻ đẹp phong phú và sự giàu có của lịch sử văn hóa dân tộc.

Sẽ không ai trách chúng ta khi chỉ thích học Tin học, Kinh tế, Ngoại ngữ… Nhưng nếu chỉ giỏi chữ số mà quên chữ viết, giỏi kĩ thuật mà kém văn hóa thì sẽ là thiệt thòi lớn cho mỗi con người.

Việc học hành quan trọng như vậy, do đó chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của việc học hành. Đúng là : “Nếu không có học hành đến nơi đến chốn thì lớn lên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích”.

Hiện nay, một số bạn trẻ không nhận thức được tầm quan trọng của việc học đối với sự thành công hay thất bại của đời người. Nhận thức lệch lạc thường dẫn đến hành động sai lầm. Bỏ học đi chơi, giao du với những thành phần bất hảo để rồi bị rủ rê, sa ngã vào con đường cờ bạc, chơi bời, hút chích… dần dần những người đó sẽ đánh mất nhân cách, mất khả năng làm việc và trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. Một cuộc sống như thế không đáng gọi là cuộc sống của một con người chân chính. Đến lúc nào đó tỉnh ngộ, dẫu có ăn năn, hối hận thì cũng đã muộn màng.

Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở và cuộc đời nếu đem áp dụng vào thực tiễn sẽ mang lại nhiều thành quả tinh thần, vật chất cho cuộc sống của bản thân, gia đình và xã hội.

Tri thức loài người mênh mông như biển cả (“Bể học vô bờ”). Dẫu chúng ta có miệt mài học suốt cuộc đời thì cũng chỉ là tiếp thu được một phần rất nhỏ. Bác Hồ dạy : “Học ở trường, học trong sách vở; học lẫn nhau và học ở dân”. Lenin cũng từng khuyên thanh niên : “Học ! Học nữa ! Học mãi !”. Đó là những lời khuyên chí lí, có giá trị đối với mọi thời đại. Nếu không coi trọng việc họ thì chúng ta sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của đất nước trong giai đoạn mới.

Câu trả lời:

Tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mẹ chăm sóc, vun đắp bằng những làn điệu dân ca bay bổng chứa đựng những ước mơ cao đẹp, hy vọng sâu xa.

Và đặc biệt, mỗi dịp về thăm mộ bà Hoàng Thị Loan, lòng tôi lại nao nao bồi hồi nhiều cảm xúc

“Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tĩnh, xuống Đoài, Đoài yên

Làm người đói sạch, rách thơm

Công danh phủi nhẹ, nước non phải đền...”.

anh 2 Khu di tfch Kim liOn phan 1

Bác Hồ về thăm quê năm 1957

Tôi tin rằng đã là người Việt Nam, ai cũng có mong muốn được một lần về thăm quê Bác Hồ – nơi vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã từng sống ngày còn ấu thơ. Về Làng Sen, thăm nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh ra, lớn lên và lên núi Động Tranh, đến mộ bà Hoàng Thị Loan để thắp nén nhang tưởng nhớ bày tỏ tấm lòng thành kính biết ơn đối với thân mẫu của Bác – người mẹ anh hùng đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một địa chỉ thiêng liêng trong lòng mỗi người dân Việt Nam.

Bà Hoàng Thị Loan (mất năm 1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường. Bà sinh ra trong một gia đình nho học truyền thống lâu đời, nếp sống hàng ngày của các thành viên trong gia đình mang nhiều phẩm chất văn hóa cao đẹp của quê hương Nam Đàn xứ sở Hồng Lam.

Khi bước vào độ tuổi trăng tròn đẹp nhất của người con gái, Bà Hoàng Thị Loan được mọi người biết đến là một cô gái nết na, thuỳ mị, luôn vui vẻ, hoà nhã, dung nhan tươi đẹp, duyên dáng, ngày thì chăm việc đồng áng, tối về nhà lại miệt mài canh cửi. Con người Bà đã hội tụ đủ bốn đức tính của người phụ nữ truyền thống: công, dung, ngôn, hạnh.

Vào thời kỳ này, người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc nặng nề bởi các lễ giáo phong kiến, đặc biệt là trong hôn nhân. Việc kết hôn phải môn đăng hộ đối: “trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi”. Được sự động viên, ủng hộ của gia đình, Bà Hoàng Thị Loan đã mạnh dạn vượt lên những quan niệm cổ hủ của xã hội để đem lòng yêu thương và kết duyên cùng cậu Nguyễn Sinh Sắc, người mồ côi cả cha lẫn mẹ và được gia đình mình đưa về nuôi cho ăn học trong nhà đã mấy năm nay. Ngày cưới của Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan được tổ chức vào mùa sen nở năm Quý Mùi (1883).

anh 5 Khu di tich Kim lien phan 1

Ngôi nhà tranh 5 gian của cụ Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép, ông bà ngoại Bác Hồ.

Ông bà Hoàng Xuân Đường dựng ngôi nhà lá ba gian đầu góc vườn phía tây nhà mình cho đôi vợ chồng mới cưới có chỗ ở riêng. Từ đó, cậu học trò Nguyễn Sinh Sắc được học tập trong tình yêu và sự giúp đỡ hết lòng của người vợ trẻ. Tình yêu, sự đảm đang, tháo vát việc nhà và sự hy sinh thầm lặng cho gia đình của Bà Hoàng Thị Loan là nguồn động viên lớn lao, là cơ sở vững chắc trên con đường cử nghiệp của ông. Những tháng ngày vất vả, gian nan trên con đường cử nghiệp của ông Nguyễn Sinh Sắc đều có dấu ấn của người vợ hiền thảo, đảm đang. Bà đã sát cánh bên ông, kiên trì động viên chồng dùi mài kinh sử để đi tới thành công trong cuộc đời thi cử của mình.

anh 6 Khu di tich Kim lien phan 1

Ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cất tiếng khóc chào đời

Ngôi nhà tranh ba gian ghi đậm dấu ấn những tháng ngày vất vả nhưng đầm ấm, hạnh phúc của gia đình bà. Ngày ngày, “Chồng miệt mài kinh sử, thiếp canh cửi đưa thoi”. Để chồng yên tâm học hành, bà Loan không quản ngại khó khăn, vất vả, một nắng hai sương lao động ngoài đồng ruộng, đến bữa về lo cơm nước cho chồng, cho con, tối đến ngồi trên khung cửi, vừa dệt vải, vừa đưa võng ru con ngủ, nhiều đêm thức tới khuya để động viên chồng ôn luyện văn chương, đỡ phần hiu quạnh. Bà không những chỉ tạo ra cơ sở vật chất đơn thuần, mà bà còn là người nối chí, tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho chồng.

Khung cửi dệt vải của bà Hoàng Thị Loan trong ngôi nhà của Bác ở làng Hoàng Trù. Trong ảnh là chiếc võng Bác thường nằm thuở nhỏ tại quê ngoại

Năm 1895, ông Sắc đủ tiêu chuẩn vào làm giám sinh trong Quốc Tử Giám để tu luyện văn chương, chờ kỳ thi Hội tới. Với mong muốn chồng tiếp tục học hành, đậu đạt cao hơn, bà đã gửi con gái đầu lòng mới 11 tuổi ở lại với mẹ già, rồi đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm (7 tuổi) và Nguyễn Sinh Cung (5 tuổi), gồng gánh theo chồng vào Huế để nuôi chồng, nuôi con, tạo điều kiện vật chất và tình cảm để chồng yên tâm học tập ở trường Quốc Tử Giám. Tình yêu, trách nhiệm với gia đình đã giúp Bà vượt qua những khó khăn bỡ ngỡ khi lần đầu tiên đặt chân lên nơi đất khách quê người, tiếp thêm sức mạnh cho Bà làm tròn vai trò của người vợ, người mẹ.

Hình ảnh người vợ chân đi dép mo cau, vai quẩy đôi gánh, một bên là con nhỏ, một bên là cả gia tài mang theo, vượt qua bao suối, bao đèo giữa những cơn mưa rào, giữa những ngày nắng gắt trên đường vào kinh đô Huế không bao giờ phai mờ trong tâm trí của ông Nguyễn Sinh Sắc. Nếu ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với các con là nền bác học với một nhân cách yêu nước thương nòi mang đậm tính nhân văn, thì ảnh hưởng từ người mẹ là nền văn hóa dân gian mang đậm truyền thống dân tộc và những phẩm chất của tầng lớp lao động bình dân in đậm trong tình mẫu tử. Bà đã nêu một tấm gương trong sáng về nhân cách đạo đức cho con cái học tập. Ở đâu Bà cũng thể hiện một lối sống vui vẻ, vô tư, có nghĩa, có tình được mọi người hết sức yêu mến và quý trọng. Với tấm lòng nhân hậu và mẫn cảm của người mẹ, bà đã vun trồng, uốn nắn, dạy dỗ con cái bài học đầu tiên về cách sống, về đạo lý làm người. Vì vậy, ngay từ thuở ấu thơ, các con của Bà đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt, biết kính trọng người trên, biết sống chan hòa với bạn bè, giàu lòng vị tha, nhân ái, biết nhường nhịn mọi người.

Là một người có biết ít nhiều chữ thánh hiền, bà Hoàng Thị Loan đã dành rất nhiều tâm sức để truyền thụ cho con những hiểu biết ban đầu về thế giới tự nhiên và xã hội. Tất cả những câu hỏi ngây thơ, ngộ nghĩnh của con đều được bà tìm cách trả lởi rõ ràng, cặn kẽ, dễ hiểu. Là một người mẹ cần cù, chăm chỉ, bà đã dạy cho con biết yêu lao động, biết làm những công việc phù hợp với sức lực và lứa tuổi của mình một cách mê say, chịu khó và sáng tạo, tự lập trong cuộc sống. Nhờ vậy, đến năm 1901, sau khi bà mất, Nguyễn Sinh Cung từ Huế trở về Hoàng Trù, mặc dù tuổi nhỏ, đã đỡ đần nhiều việc cho bà ngoại.

Những lời ru, tiếng hát ngọt ngào, chan chứa tình cảm và giá trị nhân văn sâu sắc của mẹ đã góp phần tạo nên tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân ái mênh mông của Bác Hồ. Bà Hoàng Thị Loan đã truyền lại vốn hiểu biết văn học dân gian phong phú của mình cho con qua lời ru ấm cúng, mượt mà nên tuổi thơ của các con đã hấp thụ được những tấm gương nghĩa liệt yêu nước, thương nòi, lời ca tiếng hát đã nhen nhóm vào lòng con tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng phần nào hình thành ý chí quyết tâm làm nghiệp lớn vì nước vì dân trong tâm hồn cậu bé Cung. Để rồi khi lớn lên, cậu quyết tâm bôn ba khắp năm châu bốn bể, ra đi tìm đường cứu nước chỉ với một trí tuệ lớn,một tâm hồn trong sáng, cháy bỏng tình yêu quê hương, đất nước và hai bàn tay trắng:

“Ru con, con ngủ đi nào,
Cù lao dưỡng dục biết bao cho cùng.
Làm trai quyết chí anh hùng,
Ra tay xây dựng vẫy vùng nước non”.

Tiếng ru à ơi của mẹ đã đưa cậu bé Cung vào giấc ngủ say nồng bằng những lời chói ngời đạo lý:

“Con ơi, mẹ dặn câu này,
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm.
Làm người đói sạch rách thơm,
Công danh phủi nhẹ, nước non phải đền”.

Trong sinh hoạt hàng ngày, Bà sống rất giản dị, tiết kiệm, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà tập cho con làm những điều tốt và thực tế đã trở thành nếp sống quen thuộc hàng ngày của các con. Nếp sống giản dị thanh tao đó của Bà đã được phản ánh rõ ràng trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi cậu bé Nguyễn Sinh Cung mới 10 tuổi, bà Loan bị ốm phải nằm trên giường bệnh vì lao động quá sức, đời sống lại ngặt nghèo, thiếu thốn, sức khỏe suy giảm sau khi sinh người con trai út. Bà qua đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1901 (tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý) khi tuổi đời chỉ mới 33 mùa xuân. Một đời tần tảo vất vả nuôi chồng, nuôi con nhưng khi bà từ giã cõi đời ra đi thì chồng và hai con lớn của Bà đều ở xa không hay biết. 33 năm tuy ngắn ngủi nhưng bà đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa và hạnh phúc bên gia đình, đóng góp quan trọng vào những thành công của chồng, của con.

Thi hài của Bà được mai táng ở núi Tam Tầng bên dòng sông Hương tại Huế. Năm 1922, hài cốt của Bà được cô Thanh – con gái của bà đưa về mai táng tại vườn nhà mình ở Làng Sen – Kim Liên. Năm 1942, cậu cả Nguyễn Sinh Khiêm cải táng thi hài của Bà tại ngọn núi Động Tranh Thấp trong dãy Đại Huệ. Năm 1984, để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với người đã có công sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (cũ) và lực lượng vũ trang Quân khu 4 thay mặt cho đồng bào và chiến sỹ cả nước đã xây dựng khu mộ của Bà đàng hoàng, khang trang và đẹp đẽ trên núi Động Tranh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Từ chân núi Động Tranh, lối lên phần mộ Bà nằm ở bên trái phần mộ có 269 bậc (con số 69 là năm Bác Hồ mất – 1969), lối xuống bên phải phần mộ có 242 bậc (con số 42 là năm cậu Khiêm; đưa hài cốt mẹ về đây – 1942). Trước phần mộ xuống sân bia 33 bậc, con số 33 là tuổi đời của Bà. Phía trên mộ là dàn hoa cách điệu hình khung cửi – công cụ lao động đã gắn bó với suốt cả cuộc đời Bà. Hai cụm cây hoa Giấy che mát phần mộ Bà được lấy giống từ Huế – nơi bà mất và khu lăng mộ của ông Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp. Trên nền sân thượng hình bán nguyệt trước mộ, có dựng tấm bia lớn tạc tiểu sử và công lao của Bà Hoàng Thị Loan bằng đá đen.

Từ ngày khánh thành (16/5/1985) đến nay đã có hàng triệu lượt người về đây thành kính thắp nén hương thơm tỏ lòng chân thành, ngưỡng mộ và biết ơn Bà Hoàng Thị Loan, người mẹ của một vĩ nhân, mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa Việt Nam, vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước ta.

Tình thương và nỗi nhớ sâu đậm về mẹ kính yêu vẫn luôn thường trực trong trái tim Hồ Chủ tịch. Khi đang bôn ba ở nước ngoài, giữa đêm khuya nghe tiếng một bà mẹ Việt kiều ru con, Người lại thổn thức không ngủ được vì nhớ những làn điệu dân ca, những lời ru gần gũi, thân quen thuở nhỏ của mẹ:

“Xa nhà chốc mấy mươi niên
Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.

Cụ Nguyễn Sinh Vinh – người đã gắn bó, giữ gìn mái nhà tranh của Bác Hồ ở quê nội của Người kể lại sự kiện phục dựng ngôi nhà Bác: “Lúc phục dựng ngôi nhà, chúng tôi làm bàn thờ Bà Hoàng Thị Loan bằng gỗ sơn son thiếp vàng và có làm thêm cổng vào nhà cho thêm khang trang”. Lần thứ nhất Bác về thăm quê vào ngày 16/6/1957, bước vào nhà thấy bàn thờ mẹ mình, Bác xúc động nói: “Xưa nhà Bác nghèo, bàn thờ chỉ làm bằng tre, trên trải chiếu mộc, đơn giản thôi”. Sau này, mọi người đã phục dựng lại đúng như hiện trạng nhà cũ ban đầu. Sau hàng chục năm xa quê, ngày trở lại, Người vẫn không quên lối đi nhỏ vào nhà ngày xưa, không quên chiếc rương gỗ nhỏ – của hồi môn ít ỏi của mẹ, khung cửi của mẹ, chiếc phản gỗ và mấy pho sách của cha…

“Quê hương nghĩa trọng tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”.

Một lần trên đường đi thăm hợp tác xã trồng cây giỏi ở huyện Quảng Oai (Hà Tây), nhìn thấy đoàn các em bé gái cổ quàng khăn đỏ, em mặc áo hoa xen em mặc áo trắng, tay cắp sách vừa ở trong trường ra, líu ríu như chim sổ lồng, Bác ngậm ngùi: “Lúc này Bác rất nhớ mẹ của Bác. Mẹ Bác rất thông minh, lại là con gái ông đồ nho. Thế mà mẹ Bác lại không được đến lớp, đến trường đâu các chú ạ. Cũng như phụ nữ ngày xưa, từ nhỏ mẹ Bác đã phải lo việc nhà.”

Từ khi chào đời, Bác đã được nhận nguồn sống từ dòng sữa mẹ, trong lời ru, câu ca, điệu hò và chập chững những bước đi đầu tiên được mẹ ân cần dìu dắt. Lớn lên lại chứng kiến nỗi vất vả, tảo tần lao động để lo toan nguồn sống gia đình do tay mẹ vun đắp. Do đó, Bác Hồ đã ảnh hưởng từ người mẹ nền văn hoá dân gian mang đậm bản sắc dân tộc. Bác thấu hiểu những khó khăn, vất vả của mẹ, của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Chính vì vậy, trong hành trình tìm đường cứu nước, Bác Hồ là người đề xướng và tiến hành cuộc cách mạng về giải phóng phụ nữ, đưa thân phận người phụ nữ Việt Nam từ cảnh lầm than, khổ cực, bị khinh miệt và đối xử thậm tệ trở thành người công dân có đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ, vai trò xã hội ngang hàng với nam giới. Người quan niệm rằng: “Phụ nữ chiếm một nửa tổng số dân, để xây đựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Đoàn đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về Hà Nội ngày 25/11/1965

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói về Bà Hoàng Thị Loan với những tình cảm chân thành, sâu sắc: “Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Cụ – người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã mang lại vinh quang cho đất nước Việt Nam, người mà mọi người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác sẽ mãi mãi ghi ơn !”

Không biết các bạn đã từng nghe bài hát “Người mẹ Làng Sen” chưa, còn với tôi, tôi đã nghe bài hát này không biết bao nhiêu lần. Mỗi khi giai điệu của bài hát được ngân lên, trái tim tôi lại thổn thức và bồi hồi xúc động. Xin được bày tỏ sự kính trọng và tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với Bà Hoàng Thị Loan – người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu nhất, người mẹ vĩ đại đã sinh ra cho đời của những người con anh hùng, sinh ra cho đất nước ta Người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.

“Mẹ làng sen, mẹ làng sen, Người mẹ Việt Nam đã cho đời người con quang vinh…
Mẹ làng sen, mẹ làng sen, Người mẹ Việt Nam đã cho đời người anh hùng Hồ Chí ………Minh.”

Câu trả lời:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KÌ II MÔN VĂN 6

I/ Trắc nghiệm : (3.0điểm) Khoanh tròn vào chữ cái đúng nhất ( mỗi câu đúng 0.25đ)

Câu 1: Những tác giả nào sau đây chuyên viết truyện cho thiếu nhi ?

A. Minh Huệ B. Tô Hoài C. Đoàn Giỏi D. Võ Quảng

Câu 2: Đoạn trích “ Vượt thác” “ Sông nước Cà Mau” có điểm giống nhau là :

A. Tả lại hình ảnh con người trong tư thế bị động B. Tả cảnh sông nước biển trời

C. Tả cảnh quan thiên nhiên của Tổ Quốc D. Tả sự oai phong mạnh mẽ của con người

Câu 3: Thể kí thường không có yếu tố nào ?

A. Cốt truyện B. Sự việc C. Lời kể D. Nhân vật người kể chuyện

Câu 4: Trong văn bản “ Đêm nay Bác không ngủ”lí do nào khiến Bác không ngủ được ?

A. Bác có nhiều việc phải suy nghĩ B. Trời lạnh quá mà lều tranh xơ xác

C. Bác vốn là người ít ngủ D. Bác thương dân công, chiến sĩ và lo cho chiến dịch ngày mai

Câu 5: Văn bản “ Đêm nay Bác không ngủ” thuộc phương thức biểu đạt :

A. Miêu tả và tự sự B. Tự sự và biểu cảm C. Miêu tả và biểu cảm D. Biểu cảm kết hợp tự sự miêu tả

Câu 6: Từ láy nào sau đây không phải là từ được dùng trực tiếp để tả dáng vẻ Lượm ?

A. Loắt choắt B. Xinh xinh C. Thoăn thoắt D. Nghênh nghênh

Câu 7: Các phó từ : Vẫn, đều, còn, cũng...có ý nghĩa gì ?

A. Chỉ sự cầu khiến B. Chỉ quan hệ thời gian C. Chỉ sự tiếp diễn tương tự D. Chỉ kết quả

Câu 8: Chỉ ra câu có phép so sánh không ngang bằng ?

A. Trẻ em như búp trên cành B. Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất

C. Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo D. Một mặt người hơn mười mặt của

Câu 9: Nếu viết : “ Cứ mỗi lần nhìn lên, những ngọn tre thay lá, những búp tre non kín đáo, ngây thơ, hứa hẹn sự trưởng thành” thì câu văn mắc phải lỗi nào ?

A. Thiếu chủ ngữ B. Thiếu vị ngữ C. Thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ D. Thiếu thành phần phụ

Câu 10: Khi viết : “Nhìn lên, những ngọn tre thay lá, những búp tre non kín đáo, ngây thơ,...”, tác giả đã dùng biện pháp tu từ gì ?

A. So sánh B. Ẩn dụ C. Nhân hóa D. Hoán dụ

Câu 11: Câu nào không phải là câu trần thuật đơn có từ “ là” ?

A. Tôi là một học sinh B. Mẹ là cô giáo

C. Tre là cánh tay của người nông dân D. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh

Câu 12: Đâu là chủ ngữ trong câu “ Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt”

A. Những cái vuốt B. Những cái vuốt ở chân C. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo D. Cứng dần và nhọn hoắt

II/ Tự luận : ( 7.0 điểm)

Câu 1 : Xác định chủ ngữ và vị ngữ của câu dưới đây ( gạch dưới và ghi cụ thể : CN, VN ) (1.0điểm )

Sáng nay, trên sân trường lớp 6a7 đang lao động.

Câu 2 : Một học sinh chép lại theo trí nhớ khổ thơ sau từ bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu :

Cháu cười híp mắt - Thôi chào đồng chí !

Má đỏ bồ quân Cháu đi xa dần...

Em hãy phát hiện lỗi sai trong bản chép của bạn. Vì sao em nhận ra được lỗi ấy ? ( 1.0điểm)

Câu 3 : Em hãy tả lại hình ảnh một người thầy giáo ( cô giáo) cũ đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc nhất. (5.0điểm)

********************

Một số đề bài gợi ý:

Đề bài 1 : Hãy tả lại cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời khi em đi học .

Bài làm gợi ý :

Thường lệ, đúng 6 giờ 30 phút sáng hàng tuần, em đạp xe đến trường. Từ xa, ngôi trường Trung học cơ sở ... thân thương hiện lên rất đẹp, sao mà gần gũi và quen thuộc quá !

Trường em ..... . Trường nằm trên tuyến đường ... , cách .... Trường quay mặt về hướng ..., diện tích .. . Bao bọc xung quanh trường là tường .... Từ trên cao nhìn xuống, trường như nằm trên một tấm thảm xanh khổng lồ của cánh đồng lúa bạt ngàn suốt ngày reo vui với nắng và gió.

Bước vào cổng trường, dãy phòng hội đồng cửa vẫn còn đóng. Phía trước dãy phòng là một ..., một khoảng sân khá rộng. Những chậu cây cảnh vẫn đứng trầm ngâm, duyên dáng. Lá vẫn còn đẫm sương đêm. Thấp thoáng sau bóng cây và màn sương mỏng, ngôi trường như còn say ngủ . Những tia nắng yếu ớt hình rẻ quạt bắt đầu hiện lên,báo hiệu một ngày mới thật đẹp .

Đi đến phòng thư viện, trước mắt em là hai dãy tầng lầu đứng vuông góc với nhau. Dưới tán lá sum sê là những bộ bàn ghế đá như ngồi đó chờ đợi em. Đến nhà để xe đạp, em chỉ nhìn thấy một vài chiếc xe dựng ngay ngắn ....

Đi qua các phòng học, cửa vẫn còn đóng im ỉm. Trước cửa mỗi phòng học , phía trên có tấm biển nho nhỏ ghi tên phòng, tên lớp. Em bước chân vào lớp, mặc dù các bạn chưa đến đông đủ nhưng em thấy lớp em, trường em sao mà thân thuộc, ấm cúng lạ thường. Bàn ghế trong lớp sắp xếp ngay ngắn, bảng đen được lau chùi sạch bóng. Từ trên cao, Bác Hồ nhìn xuống như thầm bảo : “ Cháu hãy cố gắng học tập cho thật tốt, nghe lời thầy cô cha mẹ, làm nhiều việc tốt hơn nữa!”

Lúc này, ông mặt trời đã lên cao sau dãy núi, ánh nắng soi rọi khắp nơi. Các bạn học sinh đi đến trường rất đông. Sân trường bỗng chốc rộn ràng tiếng nói, tiếng cười vui vẻ. Những chiếc áo trắng, những chiếc khăn quàng đỏ quen thuộc lúc ẩn, lúc hiện. Các phòng học, cửa đã mở, tất cả như bừng thức dậy sau một giấc ngủ ngon. Ở các phòng học, các bạn trực nhật lại vội vã dọn quét.

Cảnh trường vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, thân quen và đã trở thành kỉ niệm gắn bó với em tự lúc nào. Một ngày không xa, em sẽ xa trường, xa thầy cô, xa bạn bè nhưng mái trường thân yêu này sẽ gần em mãi mãi !

Đề bài 2: Em hãy viết một bài văn tả người thân yêu và gần gũi nhất của mình : Cha, mẹ,anh,chị em…

Bài làm gợi ý :

Có hai cách mở bài như sau :

Trong gia đình em có ông bà, cha mẹ, anh chị em… nhưng người mà em thương yêu gần gũi nhất là mẹ. Mẹ là người đã sinh đẻ, nuôi dưỡng, che chở em từ nhỏ đến giờ . Cố nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu có câu : “ Mẹ sẽ là nhành hoa cho con cài lên ngực”. “ Cành hoa” của mẹ đã sinh đẻ, nuôi dưỡng, chắp cánh cho em đến trường !

Mẹ em năm nay vừa tròn bốn mươi tuổi. Mẹ cao khoảng 1,6 mét, dáng người thon thon. Những lúc thảnh thơi, mẹ thường thả mái tóc ôm trọn khuôn mặt hình trái xoan, trông mẹ vốn đã đẹp càng đẹp hơn. Đặc biệt, mẹ có đôi mắt hai mí, đen lay láy. Nhìn vào mắt mẹ, ánh mắt của mẹ lúc nào cũng sáng long lanh. Sống bên mẹ, em thấy nụ cười của mẹ hiền dịu, duyên dáng. Sớm hôm lặn lội với nghề nông nên làn da của mẹ ngâm ngâm, thịt da rắn chắc, săn lại. Gọn gàng là vẻ đẹp của mẹ em đó !

Tiếng gà gáy râm ran, một ngày mới lại bắt đầu. Mẹ lại bận rộn với bao công việc : Nấu món ăn sáng, dọn dẹp nhà cửa, quét nhà... Rồi bóng mẹ khuất dần trên con đường làng quen thuộc. Quanh năm, ngày nắng cũng như ngày mưa, mẹ lúc nào cũng gắn bó với đồng ruộng. Dáng mẹ lom khom, lúc bón phân, lúc nhổ cỏ ruộng. Từ xa, em chỉ nhìn thấy mẹ với nét quen thuộc. Chiếc nón lá nhấp nhô, dáng người thoăn thoắt. Đồng lúa quê nhà như một tấm thảm khổng lồ, còn mẹ như một người thợ ngày đêm thêu dệt cho tấm thảm ấy mỗi ngày một xanh hơn. Mẹ ơi ! Con chỉ ao ước con là mây suốt ngày che nắng cho mẹ !

Ở nhà, mẹ em hay làm mọi thứ . Phải nói rằng mẹ rất khéo tay và siêng năng. Ra ngoài vườn, những cây bông hồng, hoa tí ngọ… lúc nào mẹ cũng chăm bón tỉ mỉ, tỉa cành , cắt lá, bắt sâu, rầy...làm cho bông hoa tươi hơn, đẹp hơn ! Gốc cây, lá cây , bông hoa tươi tắn, màu sắc rực rỡ càng tôn lên vẻ đẹp của sân nhà. Mùa nào, hoa nấy, nhà em lúc nào cũng có hoa . Phải nói rằng, mẹ rất yêu hoa .

Trong gia đình, mẹ rất thương bố và các con . Với bố, mẹ thường làm cho bố những món ăn ngon. Với các con, mẹ sắp xếp lại bàn ghế học tập, sách vở, kể cả quần áo của em để bề bộn, mẹ cũng để lại ngay ngắn, gọn gàng. Trong bữa ăn, mẹ dành thức ăn ngon cho con. Mẹ vui nhất là lúc em đạt được điểm cao ! Xong mẹ cũng rất nghiêm khắc khi em bị điểm thấp, bị thầy cô không hài lòng về những biểu hiện chểnh mãng trong học tập . Mẹ ơi ! Những ngày mẹ đi vắng nhà là những ngày buồn nhất của con đó !

Em biết “ Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đông”. Sự no ấm, hạnh phúc của em mà mẹ đã đổ bao mồ hôi ! Thương mẹ, em nghe lời dạy của mẹ, cố gắng học tập thật tốt để không bao giờ phụ lòng thương yêu của mẹ .

Đề bài 3: Em hãy tả lại quang cảnh một buổi lễ chào cờ đầu tuần ở trường em.

Bài làm gợi ý :

Thường lệ, cứ mỗi buổi chiều thứ hai , trường em tổ chức lễ chào cờ đầu tuần. Buổi lễ chào cờ diễn ra rất trang trọng.

Những tia nắng cuối ngày tuy đã dịu bớt nhưng vẫn còn chói chang. Trước lễ chào cờ, các tổ trực của các lớp đã có thói quen mang ghế ngồi của lớp sắp đặt ngay ngắn. Những chiếc ghế nhựa màu đỏ xếp đặt ngay hàng, thẳng tăm tắp. Bục gỗ đã được lớp trực khiêng ra để dưới tiền sảnh cầu thang từ lúc nào. Hai bên bục gỗ là những chiếc ghế dựa dành cho thầy cô giáo tham dự lễ. Trước mỗi hàng ghế nhựa là bảng tên lớp được sơn nền màu trắng, chữ đen ghi tên đơn vị lớp.

Giờ học Ngữ văn vừa kết thúc. Bỗng hai tiếng trống vang lên “ Tùng, tùng”. Học sinh từ các lớp nhanh chóng tập trung trước sân trường. Chẳng mấy chốc, hàng ngũ từng lớp rất chỉnh tề như đội quân trước giờ ra trận. Các thầy giáo trong trang phục sơ mi, đi giày. Còn các cô giáo mặc những bộ áo dài đủ sắc màu... làm cho buổi lễ thêm phần long trọng. Đứng trước lễ đài là đội nghi thức, đầu đội mũ ca lô trắng, viền xanh, mang những chiếc trống đội xinh xắn. Buổi lễ chào cờ sắp bắt đầu.

“ Nghiêm ! Chào cờ ! Chào !” Tiếng hô dõng dạc của bạn chi đội trưởng lớp 6a... vang lên. Tất cả thầy và trò đứng trang nghiêm, học sinh vung tay chào cờ. Tiếng trống đội vang lên rộn rã, nhịp nhàng. Hòa trong tiếng trống là tiếng quốc ca hùng tráng “ Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...” Chứng kiến phút giây này, em mới cảm nhận hết được sự thiêng liêng của lễ chào cờ. Đội hình học sinh như một đoàn quân trước giờ xung trận. Từ trên cao, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như vẫy gọi, thúc giục chúng em vươn lên trong học tập. Quốc ca vừa hết, tất cả chúng em đáp lại khẩu lệnh của bạn chi đội trưởng 6a... “ Sẵn sàng !”

Sau buổi lễ là phần sinh hoạt dưới cờ. Thầy giáo trực ban của tuần qua lên nhận xét tình hình thi đua giữa các lớp. Bạn đội trưởng cờ đỏ đọc điểm thi đua giữa các chi đội. Rồi với bóng hình quen thuộc, thầy hiệu trưởng nhà trường nói những tồn tại trong tuần qua. Thầy tỏ vẻ không vui khi còn có những học sinh lười học, chưa biết nghe lời thầy cô giáo. Thầy mong chờ, đặt niềm tin, kì vọng vào chúng em rất nhiều. Đặc biệt, thầy động viên, khích lệ các em trong thời gian đến phải nỗ lực thi đua trong học tập... Bản thân em phải tự cố gắng để không phụ lại niềm tin yêu của thầy cô giáo !

Buổi lễ chào cờ đã xong. Tất cả các bạn đều ra về. Ánh nắng chiều ấm lạ. Phải cố gắng thật nhiều- em tự húa với mình như vậy !

Đề bài 4: Tả hình dáng, tính tình của một bạn học sinh trong lớp em được nhiều người quý mến.

Bài làm gợi ý :

Năm nay, em lên lớp 6. Vào lớp mới, em cũng có nhiều bạn mới nhưng người bạn mà em thân nhất là.... . ... là người được nhiều người gần gũi, yêu mến!

... năm nay mười hai tuổi, cao khoảng 1,45 mét. Tóc đen mượt, dài , được bạn kẹp gọn xõa xuống gần ngang lưng ôm trọn khuôn mặt hình trái xoan tròn trĩnh. Đặc biệt, bạn có đôi mắt đen , sáng long lanh, hai hàng mi cong cong. Mũi cao. Trên đôi môi đỏ hồng , em thường thấy nụ cười hiền lành, dễ mến! Đến lớp học, ... thường bận áo sơ mi trắng , quần tây xanh đậm. Trên bờ vai là chiếc khăn quàng đỏ tươi thắm. Dáng đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn. Vẻ đẹp của ... là sự gọn gàng, rắn chắc .

Giờ học trong lớp, bạn tôi rất sôi nổi. Tiết học nào, ... chú ý lắng nghe thầy cô giảng bài. Không khí lớp học càng sôi động hơn . Đến giờ Ngữ văn, thầy ghi chữ in NHÂN HÓA khá đẹp. Rồi thầy đưa ra nhiều ví dụ. Em nhìn lên màn ảnh : Ông trời, mặc áo giáp đen , ra trận... chữ trên màn ảnh như nhảy múa, em cứ nhìn đăm đắm. Rồi câu hỏi thầy đặt ra? Tất cả diễn ra gọn, linh hoạt, nhanh nhẹn. Như mọi lần, cánh tay của bạn đưa lên, câu trả lời chính xác. Thầy cô ai cũng khen bạn em tiếp thu bài nhanh. Giờ kiểm tra 15 phút, 45 phút, ... lúc nào cũng dán mắt vào bài làm. .. ngồi bất động, lúc nhíu mày, vò đầu, trăn trở...Nhìn thấy điểm chín, điểm mười trên bài làm của bạn, em không ít lần ghen tỵ. Nhưng sự cảm phục bạn thì mỗi ngày một lớn dần.

Cũng như nhiều bạn khác trong lớp, ... là con một gia đình nông dân. Ở nhà, ... thường mặc bộ quần áo thun đã bạc màu. Công việc nhà nông khá nhiều. Sáng dậy, bạn em giặt giũ quần áo cho cả nhà, quét nhà, quét sân. Xong xuôi, bạn cho cả đàn gà ăn...Trưa lại, cùng với chị lo cơm nước cho cả nhà. Thời gian còn lại, ... bạn dành cho những bài tập mà thầy cô đã cho. Làm bài xong, bạn cũng thường chơi môn cầu lông nữa...

... là người bạn hiền, nhanh nhẹn, lễ phép nên được thầy cô thương yêu, tin tưởng. Đối với bạn bè, ... gần gũi, chan hòa, ai ai cũng thích bạn. Đến lớp, gặp những bài toán khó, em đều trao đổi với bạn. Sự cảm thông, chia sẻ, tận tình, chu đáo, lanh lợi... là tính cách của bạn em. Gần bạn,em thấy rất vui, hãnh diện vì mình có một người bạn tốt.

Ca dao Việt Nam có câu : Ra đi vừa gặp bạn hiền

Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời.

Gặp được người bạn tốt là điều quý và hiếm. Gặp bạn tốt đã khó nhưng giữ cho tình bạn mãi mãi xanh tươi thì càng khó hơn. Em nghĩ rằng, bạn bè phải thương yêu, chân thành và trong sáng. Như vậy, tình bạn mới lâu dài !

Một số đề và dàn bài gợi ý:

Đề bài 5: Tả lại đêm trăng đẹp ở quê em.

1. Mở bài : Giới thiệu cảnh định tả : Đêm trăng ở quê nhà ? Lý do tiếp xúc với đêm trăng ? Ấn tượng chung ?

Thiên nhiên luôn đem đến cho chúng em nhiều điều kì thú. Sông ngòi, núi đồi, biển cả... là những hình ảnh đẹp. Đặc biệt, vẻ đẹp của đêm trăng là vẻ đẹp huyền ảo, lung linh nhất.

2. Thân bài : Tập trung tả cảnh vật theo một thứ tự hợp lý nhất :

a. Tả bao quát : Trước khi trăng lên :

Những tia nắng cuối ngày vừa tắt lịm. Cảnh vật cứ mờ dần, mờ dần. Màn đêm như được ai đó thả xuống, bao trùm làng quê yên ả. Làng xóm đã lên đèn. Cuộc sống nhộn nhịp thường ngày nhường lại .Đường xá vắng lặng. Không gian như ngừng trôi, thời gian như lắng đọng. Làng quê như một bức tranh mực tàu nửa thực, nửa mơ...

b. Tả chi tiết :

Từ phía đông, trên đỉnh núi ..., một mảng sáng mênh mông màu mỡ gà xuất hiện. Ánh sáng ngày sáng tỏ. Ánh trăng từ từ nhô lên, tròn trĩnh, đẹp lạ thường. Bầu trời vừa rộng, vừa cao. Trên cao, lá dừa đung đưa, duyên dáng, e thẹn khi được chị Hằng dát lên một lớp vàng mỏng. Xóm làng rộn rã. Con đường làng rộn lên tiếng nói, tiếng cười, tiếng bước chân người... Vui nhất là những em nhỏ, tụm ba, tụm năm rối rít. Chúng vừa đi, vừa chạy, đùa giỡn.

Trăng đã lên cao. Trăng tròn vành vạnh. Chú Cuội sớm hôm ở bên chị Hằng chắc đêm nay không ngủ. Từ trên cao, Cuội ngồi bên gốc đa nhìn xuống mà nhớ quê nhà ? ( Bầu trời ..., con đường..., cây cối..., sân nhà...)

Đêm đã về khuya. Cảnh vật hoàn toàn tĩnh lặng. Ánh trăng treo lơ lửng trên cao. ...

3. Kết bài : Cảm nghĩ chung về đêm trăng + Bài học cho bản thân.

Đề bài 6: Ở gia đình em( hoặc một gia đình mà em quen biết) có một em bé đang tập nói, tập đi. Em hãy tả hình dáng và tính nết ngây thơ của em bé đó. ( Dựa vào dàn bài chung tả người ở trên, em hãy xây dựng dàn bài chi tiết cho đề này)

Đề bài 7: Tả lại một buổi sáng đẹp trời trên quê hương em

Đề bài 8: Tả lại hình ảnh thầy ( cô) giáo của em trong một khoảnh khắc mà em nhớ mãi

Đề bài 9: Tả lại cảnh trường em trong thời điểm giao mùa( từ mùa xuân sang mùa hè)

Đề bài 10: Tả một cảnh thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương em

Câu trả lời:

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 6 – HỌC KÌ II

NĂM HỌC: 2016 – 2017

I. Văn bản: Kiến thức nằm trong nội dung học ở HKII ( Từ Bài học đường đời đầu tiên đến hết Ôn tập truyện và kí)

Học thuộc lòng thơ:

+ Đêm nay Bác không ngủ

+ Lượm

Học sinh cần nắm được tên văn bản, tác giả, thể loại, phương thức biểu đạt, giá trị nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của một số tác phẩm, đoạn văn, đoạn thơ đặc sắc đã học ở chương trình Ngữ Văn 6- HK2. Biết so sánh (điểm giống và khác) giữa truyện và kí. Xem lại các câu hỏi đọc-hiểu văn bản trong SGK.

* Lưu ý:

Chú ý các dạng câu hỏi trong phần đọc – hiểu văn bản trong SGK

Không cho câu hỏi thuộc lòng về tiểu sử của tác giả, tóm tắt truyện; không hỏi nội dung, nghệ thuật của văn bản ( Ghi nhớ).

II. Tiếng Việt: Không hỏi lí thuyết chú trọng thực hành các kiến thức nằm trong nội dung học ở HKII (Từ Phó từ đến hết Chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ)

Nắm vững khái niệm, các kiểu và tác dụng của các phép tu từ nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ Đặt câu, xác định chủ ngữ- vị ngữ, xác định các kiểu câu: Câu trần thuật đơn, câu trần thuật đơn có từ “là”, câu trần thuật đơn không có từ “là”; xác định phó từ.

* Viết đoạn văn: có thể kết hợp với các kiến thức Tiếng Việt mà em đã được học với các chủ đề gần gũi của lứa tuổi học sinh (như học tập; yêu mến trường lớp, giữ gìn vệ sinh chung; tôn trọng nội quy nhà trường; an toàn giao thông; các phẩm chất; các thói quen tốt và xấu trong sinh hoạt, học tập).

Ví dụ: Tập viết đoạn văn (6-8 câu) có vận dụng kiến thức Tiếng Việt (nhân hóa, so sánh, câu trần thuật đơn có từ “là”, câu trần thuật đơn không có từ “là” v..v) với chủ đề về gia đình, trường lớp, bạn bè, học tập, yêu thương, đoàn kết, trung thực, lễ phép, hiếu thảo, v..v

III. Tập làm văn: Chú ý phương pháp làm bài cho văn MIÊU TẢ

* Lưu ý: Nắm được một số yêu cầu chung về thể loại

Khái niệm văn miêu tả, phương pháp làm bài văn miêu tả cảnh. Chọn trình tự khi miêu tả phù hợp. Miêu tả cần làm rõ đặc điểm của cảnh vật bằng cách chọn lọc chi tiết tiêu biểu, nổi bật. Kết hợp: quan sát, so sánh, tưởng tượng và nhận xét. Vận dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa. Bộc lộ được cảm xúc của người viết về đối tượng miêu tả Chú ý bố cục, kĩ năng tạo dựng đoạn văn trong phần thân bài.

Ví dụ minh họa các đề văn tả cảnh:

1/ Em hãy tả lại quang cảnh con đường đến trường em vào buổi sớm mai.

2/ Hãy tả quang cảnh sân trường em vào giờ ra chơi.

3/ Hãy tả lại quang cảnh của một cảnh đẹp thiên nhiên mà em đã được dịp tham quan.

4/ Tả quang cảnh một tiết sinh hoạt dưới cờ vào sáng thứ 2 đầu tuần ở trường em.

5/ Hãy tả lại quang cảnh học sinh trường em đang tập thể dục giữa giờ.

6/ Miêu tả lại cảnh một tiết học mà em yêu thích nhất.

Câu trả lời:

Soạn bài từ ghép I.

Hướng dẫn trả lời câu hỏi 1.

Các loại từ ghép. Ví dụ 1: Mẹ còn nhớ sự nôn nao hồi hộp khi cùng “bà ngoại” đi tới gần ngôi trường… Nhận xét về từ: - Bà ngoại: + Bà là tiếng chín, ngoại là tiếng phụ. + Tiếng ngoại bổ sung cho tiếng bà. + Bà ngoại dùng để phân biệt với bà nội + Nghĩa của từ bà ngoại hẹp hơn nghĩa của từ bà. Ví dụ 2: … Các mùi “thơm phức” của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ… Nhận xét về từ: - Thơm phức: + Thơm là tiếng chính, phức là tiếng phụ. + Tiếng phức bổ sung cho tiếng thơm + Thơm phức dùng để phân biệt với thơm lừng, thơm tho, thơm ngát… + Nghĩa của từ thơm phức hẹp hơn nghĩa của từ thơm. 2.

Nghĩa của từ ghép. Ví dụ: - Áo quần: + Do hai tiếng tạo thành + Tiếng áo và tiếng quần đều có nghĩa. + Cả hai tiếng đều dùng để chỉ vật dụng trang phục của con người. = > Từ áo và từ quần nghĩa hẹp hơn so với từ áo quần. - Trầm bổng: + Cả hai tiếng đều ngang hàng nhau. + Không có tiếng nào phụ. + Là âm thanh khi cao khi thấp rất êm tai. - Xét riêng từng tiếng: + Trầm: âm thanh ở âm vực thấp + Bổng: âm thanh ở âm vực cao = > Nghĩa hẹp hơn so với từ trầm bổng. II. Luyện tập Câu 1. Xếp các từ ghép suy nghĩ, lâu đời, xanh ngắt, nhà máy, nhà ăn, ẩm ướt, đầu đuôi, cười nụ, cây cỏ theo bảng phân loại. - Những từ thuộc từ ghép chính phụ: lâu đời, xanh ngắt, nhà máy, nhà ăn, cười nụ. - Những từ thuộc từ ghép đẳng lập: suy nghĩ, ẩm ướt, đầu đuôi, chài lưới, cây cỏ. Câu 2. Điền thêm tiếng vào sau các tiếng dưới đây để tạo từ ghép chính phụ. Búp bi Thước kẻ Mưa phùn Làm quen Ăn cơm Trắng tinh Vui tai Nhát gan Câu 3. Điền thêm tiếng vào sau các tiếng dưới đây để tạo từ ghép đẳng lập. Từ Ghép Núi Sông Rừng Mặt Mũi Mày Ham Muốn Thích Học Hỏi Hành Xinh Đẹp Tươi Tươi Trẻ Cười Câu 4. - Ta có thể nói: một cuốn sách, một cuốn vở bởi vì sách, vở là danh từ chỉ sự vật cụ thể tồn tại dưới dạng có thể đếm được, có thể kết hợp với số từ. - Còn sách vở là từ ghép đẳng lập, có tính chất hợp nghĩa mang tính khái quát, không thể kết hợp với số từ, cho nên không thể nói: một cuốn sách vở. Câu 5. a. Có phải mọi thứ hoa có màu hồng đều gọi là hoa hồng không? - Không phải mọi thứ hoa có màu hồng đều gọi là hoa hồng. - Hoa hồng ở đây dùng để gọi tên một loài hoa, như: hoa lan, hoa cúc, hoa hồng, hoa đào… - Hoa hồng có rất nhiều loại: hoa hồng bạch, hoa hồng vàng, hoa hồng đỏ. b. Em Em nói “Cái áo dài của chị em ngắn quá!”. Nói như thế có đúng không? Tại sao? - Em Nam nói “Cái áo dài của chị em ngắn quá!” là hoàn toàn đúng. - Bởi lẽ áo dài ở đây là một từ ghép phân loại chỉ một loại áo có tà rất dài tới quá đầu gối, khác với tà áo sơ mi thường ngắn ngang mông. c. Có phải mọi loại cà chua đều chua không? Nói “Quả cà chua này ngọt quá!” có được không? Tại sao? Cà chua là một danh từ chỉ một loại quả giống quả: cà pháp, cà bát, cà tím, chứ không phải là quả cà có vị chua. - Nói: “Quả cà chua này ngọt quá!” hoàn toàn được. d. Có phải mọi loại cá màu vàng đều là cá vàng không? Cá vàng là loại cá như thế nào? - Không phải mọi loại cá có màu vàng đều gọi là cá vàng. - Cá vàng là một loại cá cảnh thường được nuôi trong chậu, hoặc bể. Chúng có mắt lồi, thân tròn, ngắn, đuôi rất to đẹp và dài và có nhiều màu sắc khác nhau: đỏ, đen, bạc nhưng phổ biến là màu vàng. Câu 6. - Bốn từ ghép này thuộc hai loại từ ghép đẳng lập và ghép chính phụ, ta phải dựa trên đặc điểm của từng loại từ ghép để phân tích và so sánh nghĩa. - Ghép chính phụ: mát tay, nóng lòng. + Mát: mát mẻ. Tay: bộ phận của cơ thể con người. + Mát tay: người dễ đạt được kết quả trong công việc, ví dụ như: mát tay chăn nuôi, mát tay chữa bệnh. + Nóng lòng: cảm thấy bồn chồn, lo lắng không yên, linh cảm điều gì đó chẳng lành. - Ghép đẳng lập. + Gang thép: nghĩa là cứng cỏi, vững vàng. + Tay chân: người đắc lực, thân tín nhưng có hàm ý không tôn trọng. = > Như vậy, từ nghĩa cụ thể từng từ, đến nghĩa của từ ghép có sự khác biệt, nó không đơn giản là nghĩa của từng tiếng cộng lại. Cả 4 từ ghép này đều mang nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa gốc. Câu 7. Đây là những từ ghép chính phụ có ba tiếng, cách thức cấu tạo của chúng giống như từ ghép có hai tiếng. Nghĩa là có tiếng làm thành tố chính và có tiếng làm thành tố phụ. Câu 8. Học / hành - > học hành Ăn / uống - > ăn uống Đi / đứng - > đi đứng Sách / vở - > sách vở Hội / họp - > hội họp Nhà / cửa - > nhà cửa Câu 9. 1. Người làm nghề dạy học 2. Người chuyên sáng tác văn xuôi 3. Người chuyên nghề viết báo 4. Nơi trình diễn những tiết mục nghệ thuật sân khấu 5. Nhà làm bằng kính 6. Nhà có sàn để ở 7. Dùng làm vật tặng, biếu 8. Làm tốt điều lành để cứu giúp người khác 9. Bắt đầu tiếp xúc để quen biết Nhà giáo Nhà văn Nhà báo Sân khấu Nhà kính Nhà sàn Quà biếu Việc thiện Làm quen

Câu trả lời:

MẸ TÔI (Ét-môn-đô đơ A-mi-xi) I. VỀ TÁC GIẢ Ét-môn-đô A-mi-xi (1846-1908) là nhà văn I-ta-li-a, người đã viết bộ sách giáo dục Những tấm lòng cao cả nổi tiếng (trong đó có đoạn trích Mẹ tôi). Ngoài ra, ông còn là tác giả của những cuốn sách như Cuộc đời của những chiến binh (1868), Cuốn truyện của người thầy (1890), Giữa trường và nhà (1892),... Trong những cuốn sách đó, vấn đề quan hệ giữa thầy và trò, gia đình và nhà trường, quan hệ bè bạn,... được thể hiện rất sinh động qua những câu chuyện hấp dẫn và bổ ích. II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Mặc dù có nhan đề là Mẹ tôi nhưng văn bản lại được viết dưới dạng một bức thư của người bố gửi cho con trai. Cách thể hiện độc đáo này giúp cho những phẩm chất của người mẹ (nội dung chủ yếu của tác phẩm) được thể hiện một cách khách quan và trực tiếp. Đồng thời qua đó, người viết thư có điều kiện để bộc lộ trọn vẹn thái độ, cảm xúc của mình mà không làm cho người tiếp thu (đứa con) phải xấu hổ, từ đó nhanh chóng hiểu ra vấn đề. 2. Qua bức thư, có thể nhận thấy người bố rất buồn bã và tức giận trước thái độ và cách ứng xử của En-ri-cô (khi cô giáo đến thăm nhà, En-ri-cô đã thốt ra một lời thiếu lễ độ với mẹ). Những câu văn thể hiện thái độ của người bố: - “… việc như thế không bao giờ con được tái phạm nữa”. - “Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy”. - “bố không thể nén được cơn tức giận đối với con”. - “Từ nay, không bao giờ con được thốt ra một lời nói nặng với mẹ”. - “…thà rằng bố không có con, còn hơn thấy con bội bạc với mẹ”. 3. Các hình ảnh, chi tiết nói về người mẹ của En-ri-cô: “…mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con,…khi nghĩ rằng có thể mất con”; “Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc…có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con”. Những chi tiết này cho thấy, mẹ En-ri-cô là một người dịu dàng hiền từ, giàu tình thương yêu và đầy trách nhiệm. Mẹ En-ri-cô cũng như biết bao nhiêu người mẹ khác, luôn sẵn sàng hi sinh tất cả cho những đứa con yêu. 4. Em sẽ lựa chọn phương án nào trong các phương án sau để trả lời cho câu hỏi: điều gì đã khiến En-ri-cô “xúc động vô cùng” khi đọc thư của bố? a) Vì bố gợi lại những kỉ niệm giữa mẹ và En-ri-cô. b) Vì En-ri-cô sợ bố. c) Vì thái độ kiên quyết và nghiêm khắc của bố. d) Vì những lời nói rất chân tình và sâu sắc của bố. e) Vì En-ri-cô thấy xấu hổ. Gợi ý: Có thể lựa chọn các phương án: a, c và d. 5*. Người bố không nhắc nhở En-ri-cô trực tiếp mà lựa chọn cách viết thư, vì: - Nhắc nhở trực tiếp thường rất khó kiềm giữ được sự nóng giận. - Nhắc nhở trực tiếp khó có thể bày tỏ được những tình cảm sâu sắc và tế nhị. - Nhắc nhở trực tiếp có thể khiến người mắc lỗi cảm thấy bị xúc phạm quá lớn vào lòng tự trọng. Từ đó có thể dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực ở đứa trẻ, khiến cho những lời nhắc nhở không phát huy được mục đích giáo dục như mong muốn. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Tóm tắt Vì được viết dưới dạng một bức thư nên văn bản này hầu như không có cốt truyện. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào cách thể hiện của văn bản (đã nói ở trên) để tóm tắt những nét chủ yếu như sau: En-ri-cô ăn nói thiếu lễ độ với mẹ. Bố biết chuyện, viết thư cho En-ri-cô với lời lẽ vừa yêu thương vừa tức giận. Trong thư, bố nói về tình yêu, về sự hi sinh to lớn mà mẹ đã dành cho En-ri-cô... Trước cách xử sự tế nhị nhưng không kém phần quyết liệt, gay gắt của bố, En-ri-cô vô cùng hối hận. 2. Cách đọc Văn bản hầu như chỉ sử dụng một giọng điệu duy nhất là giọng điệu của người bố nói với con. Bởi vậy, ngoài đoạn thứ nhất (được viết theo phương thức tự sự) đọc bằng giọng chậm rãi, thể hiện sự hối hận của En-ri-cô, các đoạn sau cần đọc bám sát giọng điệu của người bố: khi thủ thỉ tâm tình (nói về tình yêu và sự hi sinh của mẹ đối với En-ri-cô), khi tức giận (biểu lộ thái độ giận dữ trước cách nói năng của En-ri-cô với mẹ),... 3. Có thể chọn đoạn văn sau để học thuộc lòng: Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên nó. 4. Kể lại một sự việc em lỡ gây ra khiến bố mẹ, mẹ buồn phiền. Trong cuộc đời của mỗi con người nhất là khi còn thơ ấu chắc hẳn sẽ không ít lần mắc lỗi khiến cho bố mẹ phải phiền lòng. Em có thể nhớ lại câu chuyện (của bản thân, của người khác mà em từng được chứng kiến hay nghe kể lại) từng khiến mình phải băn khoăn, day dứt và hãy kể lại câu chuyện đó. Cần chú ý nêu ra được những bài học cho bản thân.